Showing posts with label VĂN HỌC. Show all posts
Showing posts with label VĂN HỌC. Show all posts

Monday, June 8, 2015

THI SĨ VŨ HOÀNG CHƯƠNG “ĐỜI VẮNG EM RỒI… SAY VỚI AI!?

vũ hoàng Chương

ĐỜI VẮNG EM RỒI SAY VỚI AI!?

Sóng dậy đìu hiu biển dấy sầu,
Lênh đênh thương nhớ dạt trời Âu.
Thôi rồi, tay nắm tay lần cuối,
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.

Trai lỡ phong vân gái lỡ tình,
Này đêm tri ngộ xót điêu linh,
Niềm quê sực thức lòng quan ải,
Giây lát dừng chân cuộc viễn trình

Tóc xoã tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lá hoa dung,
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo,
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.

Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay.
Buồn mưa, trăng lạnh: nắng, hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say.

Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai.
Ra đi chẳng hứa một ngày mai.
Em ơi! lửa tắt bình khô rượu,
Đời vắng em rồi say với ai?

Phương Âu mờ mịt lối quê Nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé bến nào đây, người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng?

Tuyết xuống phương nào, lạnh lắm không?
Mà đây lòng trắng một mùa đông
Tương tư nổi đuốc thâu canh đợi,
Thoảng gió… trà mi động mấy bông

 

VŨ HOÀNG CHƯƠNG

(Trích trên Net của Vĩnh Diệp)

Sunday, April 26, 2015





NGÀY QUỐC HẬN MUÔN ĐỜI LÀ QUỐC HẬN !
(gởi những kẻ có ý đồ muốn đổi NGÀY QUỐC HẬN đau thương trong lịch sử Việt Nam thành ngày tự do hoặc ngày của thuyền nhân để bịp lừa nhân loại.)


Ngày Quốc Hận phải là ngày Quốc Hận
Không tự do mà cũng chẳng thuyền nhân !
Tự do gì khi tám chục triệu dân
Bị đàn áp, bị tù đày, bị giết ?!

Bị đảng xem như con giun cái kiến
Bắt Dốt, bắt Mù, bắt Điếc, bắt Câm 
Khi đảng lạy Tàu, cắt đất quì dâng
Dân phản đối, đảng vu là phản động ...

Cánh cửa nhà tù thét to, mở rộng
Và người tù không án vẫn chung thân
Ðảng cấm vợ con, cha mẹ, xa gần
Ðến thăm viếng. Tự do à ??? Gian lận !!!

Ngày Quốc Hận thì gọi là Quốc Hận
Sao lại lập lờ ngày của thuyền nhân ?
Ba Mươi Tháng Tư nếu lũ vô thần
Không cướp miền Nam, thuyền nào vượt biển ???

Cướp miền Nam, đảng gây thêm oan nghiệt
Thu đất, đoạt nhà, vơ vét, quan liêu
Máu thịt dân lành, gia sản tan tiêu
Nên mới có thuyền nhân sau cuộc chiến

Cướp nước rồi, nếu đừng tù, ngưng giết
Ðừng trả thù người tàn ác, bất lương
Bắt tay nhau cùng dựng lại quê hương
Thì đã chẳng có tên " NGÀY QUỐC HẬN " !

Bất nhân thế, sao hèn, không dám nhận
Là tháng Tư, loài qủi đỏ dã man
Tàn bạo, gian hùng, bức tử miền Nam
Gieo tang tóc, xô dân vào ngục tối ???

Sao muốn đổi tên ? Sợ mà chối tội ?
Hay gian ngoa, điên đảo bịp lừa người ?
Bịp cách nào, tay vẫn máu dân tươi !
Vì tội ác vẫn còn kia, chất ngất ....

Ngày Quốc Hận thì gọi là Quốc Hận
Nghe rõ chưa hỡi kẻ thiếu tim người !
Món bịp bây giờ đã ế, đã ôi ...
NGÀY QUỐC HẬN MUÔN ĐỜI LÀ QUỐC HẬN !



Ngô Minh Hằng

Sunday, March 2, 2014

Chuyện Tình Việt Dzũng: Lệ Rơi Trên Đôi Nạng Gỗ

(03/01/2014)

Tác giả : Giao Chỉ - San Jose

Buổi chiều HO San Francisco.

Tết Giáp Ngọ đã qua gần cả tháng, Hội HO của anh Phú San Fran mới tổ chức đón Xuân muộn. Xác pháo đã chìm mất tiêu sau trận mưa đầu mùa tại Chinatown. Bà con ta vẫn vui vẻ cùng với biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn hát ly rượu mừng của Phạm Đình Chương.

Sau phần thứ nhất của chương trình mừng tân niên Giáp Ngọ, đến phần thứ hai là tưởng nhớ Việt Dzũng. Anh Huỳnh Lương Thiện lên nói về người chiến sĩ đấu tranh số một của hải ngoại. Anh đồng ý với Nguyễn Văn Khanh (Trưởng ban Việt Ngữ RFA) rằng Việt Dzũng được mọi người nhớ đến qua bài ca bất hủ "Một Chút Quà Cho Quê Hương" và bản thân anh chính là một món quà rất quý. Có lẽ nên nói rõ hơn, chính Việt Dzũng là món quà của quê hương dành cho chúng ta, dành cho hải ngoại.

Ánh sáng của hội trường hạ thấp xuống, mọi người được yêu cầu đứng dậy, thành viên của văn nghệ Lam Sơn từng bước rước cờ Vàng vào hội trường. Một thiếu phụ nhỏ bé, mặc áo đen, đeo kính trắng, quấn khăn tang mang di ảnh Việt Dzũng cùng chậm rãi tiến vào. Đi sau là hai quân nhân mang theo tấm bảng tưởng niệm gắn một áo thun hình đấu tranh do chính Việt Dzũng vẽ mẫu, và đôi nạng của Việt Dzũng tặng cho Việt Museum San Jose. Hội trường khoảng 200 người đứng lên đón chào. Mọi người lần lượt thắp hương. Thiếu phụ đứng bên bàn thờ đáp lễ. Anh Thiện giới thiệu đây là "cô quả phụ Việt Dzũng" từ Nam Cali đã một mình lái xe suốt đêm qua đem theo di ảnh Việt Dzũng đến với chúng ta. Hội trường vang dội tiếng vỗ tay đầy xúc động. Người đàn bà nhỏ bé vóc dáng như sinh viên chưa tốt nghiệp lại chính là “cô quả phụ”. Không ai biết rõ về thân thế của cô. Quen biết Việt Dzũng lúc nào?. Lấy nhau bao giờ?.Cuộc đời đôi lứa ra sao?

Đời sống của Việt Dzũng đã đi cùng quần chúng suốt 30 năm dài trên báo chí, radio, TV, sân khấu, CD và DVD... Ai cũng biết anh chàng tàn tật mang đôi nạng đấu tranh đi khắp bốn phương trời. Vậy mà cuộc đời tình ái, cuộc sống gia đình thế nào chẳng ai hay biết!!!

Hình ảnh về Việt Dzũng.

Buổi tối tại San Jose.

Sau chương trình đón xuân và tưởng niệm Việt Dzũng tại San Francisco, đoàn xe chúng tôi kéo về viện bảo tàng Việt Nam. History Park San Jose đã đóng cửa từ 5 giờ chiều. Chúng tôi mở cửa riêng đón phái đoàn vào Việt Museum. Gần 7 giở tối mà màn đêm như đã buông xuống từ lâu. Toàn thể công viên tối thẩm. Riêng Việt Museum mở đèn sáng để chào đón người thiếu phụ bé nhỏ như dáng sinh viên chưa tốt nghiệp. Một buổi tiếp nhận hết sức đặc biệt được tổ chức để “cô quả phụ Việt Dzũng” chứng kiến việc trao di vật cho Viện Bảo Tàng. Buổi lễ đơn sơ nhưng đầy ý nghĩa.

Anh Huỳnh Lương Thiện, chủ nhiệm báo Mõ San Fran nói về câu chuyện nhận đôi nạng tại buổi sáng ngày đầu tang lễ Việt Dzũng, do cô Hoàng Anh trao lại cho kỹ sư Nguyễn Tấn Thọ. Anh Thọ tiếp lời, nói về trường hợp tiếp nhận di vật từ tay vợ Việt Dzũng trong hoàn cảnh tế nhị. Cô đã chứng tỏ bản lãnh và sự can trường của mình mới thực hiện được tốt đẹp di nguyện của Việt Dzũng trước đây trong một lần ghé thăm viện bảo tàng lúc còn sinh thời. Sau đó, anh Thọ đã chính thức trao di vật. Tiếp theo, Hoàng Anh nói đôi lời gửi gấm, cô nói thêm về niềm vinh dự khi đôi nạng của Việt Dzũng được lưu giữ ở nơi xứng đáng. Hoàng Anh cho rằng Việt Dzũng đạt được ý nguyện để lại cho đời đôi nạng đấu tranh. Chúng tôi, với tư cách đại diện Museum xúc động đón nhận và thưa rằng đây là di vật giá trị nhất mà hải ngoại có được để dành cho thế hệ mai sau.

Tôi cũng ghi nhận thêm rằng, hơn 30 năm trước, khoảng đầu thập niên 80, nghệ sĩ Việt Dzũng đã từng lên sân khấu CPA tại San Jose hát lần đầu tiên bài món quà gửi cho quê hương. Thực sự lúc đó đồng bào di tản đợt đầu đang tìm cách gửi quà về quê nhà. Những hộp quẹt, đá lửa, bút bi, vải vóc, kim chỉ và các vật dụng thường nhật lại là hàng qu?ý giá. Việt Dzũng với bộ áo vải đen, đứng trên đôi nạng gỗ vừa hát vừa khóc. Cộng đồng non trẻ Việt Nam ở San Jose vừa nghe vừa khóc theo. Anh em chúng tôi lúc đó dường như thể hiện hình ảnh của một cộng đồng tỵ nạn nước mất nhà tan. Dường như ai ai cũng đứng trên đôi nạng gỗ với các bước đi tập tễnh bất thường.

Từ sân khấu xuống hội trường, tưởng như ai cũng thấy những giọt lệ rơi trên nạng gỗ. Bài ca của Việt Dzũng sáng tác gửi quà cho quê hương vào ngày hôm đó não nùng và đậm nét nhiều hơn hoàn cảnh ngày nay.

Nhưng đêm hôm nay, đêm Chủ Nhật 23 tháng 2-2014, giữa khung cảnh u tịch và huyền ảo của Việt Museum. Một bên là các ngọn đèn nhỏ bé lung linh của mô hình nghĩa trang quân đội, một bên là ánh đèn mờ ảo của bức tường tù cải tạo. Đêm chứng kiến cho việc tiếp nhận các di vật này. Khoảng cách thời gian là 1 phần 3 thế kỷ. Hơn 30 năm trước tại CPA down town San Jose, Việt Dzũng khóc trên sân khấu với hội trường 2,700 người. Và 30 năm sau tại công viên San Jose Park đường Senter, có một cô gái cũng khóc trên đôi nạng gỗ, với vài anh chị em chúng tôi chứng kiến, nhưng ý nghĩa rất gần nhau.

Cô nói rằng: "Con là Bebe Hoàng Anh, vợ của Việt Dzũng. Dù mộ anh ở Nam Cali, nhưng bây giờ con biết, linh hồn anh đã theo cặp nạng này, sẽ ở đây đời đời với các vị anh hùng tại Việt Museum. Sau này nếu con có thể làm được gì. Xin bác cho con biết. Con xin cám ơn".

Hình ảnh về Việt Dzũng.

Tình yêu thầm kín.

Thưa các bạn, trong 30 năm qua tôi đã nhận được biết bao nhiêu là di vật. Quần áo, quân trang, quân dụng, di sản của thuyền nhân, của quân đội, của chiến binh, của các lãnh tụ... nhưng đôi nạng của Việt Dzũng quả thực là di vật quý giá nhất có linh hồn. Cuộc đời của Việt Dzũng, sự nghiệp đấu tranh của Việt Dzũng đã phơi bày tràn ngập trong cộng đồng. Nhưng tình sử với những giọt nước mắt trên nạng gỗ quả thực chẳng ai hay biết.

Tôi xin gửi đến các bạn câu chuyện tình hết sức đặc biệt của đôi trẻ. Tôi nói chuyện với “cô quả phụ" Hoàng Anh tới canh khuya đêm chủ nhật, tôi xin viết đầu đuôi chuyện cô kể lại như sau:

"...Thưa Bác, Trong đời con có 1 ngày đáng ghi nhớ. Đó là ngày làm lễ Đạo, thành hôn với anh Dzũng. Ngày đó là 22 tháng 11, 2006. Con qua Mỹ năm 1983 lúc đó mới ngoài 20 tuổi. Từ quê nhà đã nghe tiếng hát Việt Dzũng qua đài VOA và anh đã là thần tượng của con từ dạo ấy. Qua Mỹ đi học Anh Ngữ ESL, trong chương trình có mua nhạc Việt Dzũng viết bằng anh ngữ để học và để nghe. Nhân dịp con tham dự đại hội công giáo ở New Orlean, lần đầu tiên thấy Việt Dzũng trên sân khấu. Con nhìn thần tượng yêu dấu, mà điều đặc biệt là không hề quan tâm đến đôi nạng. Con tưởng như Dzũng là 1 người bình thường. Không hề thấy hình ảnh của người tật nguyền. Một phần là chính anh Dzũng hết sức tự nhiên khi diễn xuất ca hát không có chút mặc cảm. Anh Dzũng không hề cảm thấy phiền phức về đôi nạng. Tất cả khán giả đều không quan tâm đến đôi chân của Dzũng. Con bắt đầu xây dựng tình yêu với thần tượng của con.

Sau đó con về làm thư k?ý, ký giả, nhiếp ảnh viên và làm quản trị báo chí tại Nam Cali. Một hôm Việt Dzũng gọi điện thoại cho xếp của con là thi sĩ Du Tử Lê. Con trả lời điện thoại, nghe giọng nói trầm ấm của chàng mà lòng hết sức rung động. Còn chàng có cảm thấy gì không con không biết!

Rồi Dzũng đến chơi, rủ Du Tử Lê đi ăn. Con giáp mặt nói chuyện với mối tình đầu. Hết sức xúc động. Nhưng bác cũng biết, con còn trẻ, tự cho mình là xinh đẹp. Và tuy yêu nhưng cũng tự ái, vì mình là con gái.. Mối tình thầm kín cố không để lộ cho chàng biết. Nhưng có thể chàng cũng đoán biết vì Việt Dzũng tinh ma lắm. Và chuyện tình từ đó khởi đi. Con chờ Dzũng mở lời. Cho đến một ngày đẹp trời, Việt Dzũng mở lời thú nhận rằng đã yêu con từ lâu rồi. Thế là con ưng thuận."

Bác hỏi cháu là hai bên đã biết nhau từ thời kỳ 85 hay 86 mà sao đến 2006 mới cưới? Chờ đợi gì lâu thế?.

Cô Hoàng Anh nói ngay."Không, tụi cháu đâu có chờ đợi lâu thế. Biết nhau hơn 1 năm là tụi cháu về đoàn tụ ngay. Em theo chàng về dinh mà bác..." Quả thực lạ lùng, như vậy Việt Dzũng đã có vợ từ thời kỳ 80 mà sao chả ai hay.

Hình ảnh về Việt Dzũng.

Bebe Hoàng Anh nói tiếp:

"Thực vậy, chúng cháu rất tự lập và rất kín đáo. Khi cháu qua Mỹ, năm sau mẹ cháu mất, chỉ còn cha, trong nhà gọi là cậu. Qua đầu thập niên 90, cậu cháu đau yếu. Để vui lòng cha, cháu yêu cầu cha mẹ Việt Dzũng đến gặp cậu cháu để ngỏ lời. Dzũng làm thân với cậu. Cậu cho cây mai, Dzũng đem về chăm sóc. Sau đó cậu cháu và ba Dzũng đều ra đi. Chúng cháu vẫn ở với nhau thủy chung không thay đổi. Dzũng vừa là chồng, là bạn, là người anh, người thầy hướng dẫn cho cháu. Cuộc sống bận rộn nhưng rất êm đềm hạnh phúc. Đời sống riêng tư của chúng cháu bên ngoài chẳng ai biết. Suốt thời gian bên nhau Dzũng luôn ngỏ ý muốn tổ chức hôn lễ, nhưng cháu ngần ngại khước từ. Cho đến năm 2006, Dzũng hết sức thúc dục và cũng nói là bác sĩ cho biết sức khỏe của anh không được tốt. Nếu một mai anh không còn nữa thì sao, cho nên anh muốn có 1 lễ nghi tôn giáo chính thức. Rồi Dzũng chỉ yêu cầu dành cho anh một ngày. Đó là ngày 22 tháng 11-2006. Đến giờ chót con mới biết đó là ngày hôn lễ của chúng con. Hôn lễ hết sức giới hạn, chỉ có gia đình 2 bên. Chú Ngọc Hoài Phương, cô Diễm, chú Du Tử Lê."

"Vậy có Nam Lộc, Trúc Hồ không?" Tôi hỏi.

"Dạ, cũng không có đâu bác". Hoàng Anh trả lời.

"Sao chúng cháu giữ kín vậy. Cô Diễm nào, có phải cô Diễm là em bà Hoa không?" Tôi hỏi tiếp.

"Đúng đấy. Bà Hoa mới mất! bác biết không?". Hoàng Anh thêm vào. Tôi trả lời: "Bác biết quá đi chứ. Bác Hoa là vợ ông Đằng bạn của bác Lộc. Bác Hoa là bạn thân của bác gái mà."

Tôi nói tiếp:"Trở lại chuyện của của cháu bác thấy hết sức lạ lùng. Mối tình thầm kín. Hôn nhân cũng thầm kín. Chung sống với nhau 10 năm mới đám hỏi, rồi 10 năm sau mới đám cưới. Rồi từ lễ cưới 8 năm trước đến nay khi có đám tang thiên hạ mới biết Việt Dzũng có gia đình. Bác tưởng là mới lấy nhau rồi Dzũng ra đi."

Cô quả phụ nhỏ bé buồn bã nói rằng: "Ai cũng tưởng như vậy. Chuyện tình của chúng cháu là thiên tình sử lâu dài nhưng hết sức riêng tư. Bác nói đúng, sống với Dzũng, cháu không bao giờ nghĩ anh Dzũng là người có thương tật. Anh Dzũng của cháu là người chồng rất bình thường. Với đôi nạng gỗ, anh là người nghệ sĩ phi thường."

Người cô phụ năm nay cũng ngoài 50 tuổi, đâu có bé bỏng gì, nhưng khuôn mặt long lanh nước mắt trẻ thơ nhìn tôi như có hình ảnh đầy hãnh diện của người tình thần tượng. Tôi lại nói rằng: "Từ đám cưới vài chục người với đám tang cả chục ngàn người, Dzũng đã để cho con quá nhiều kỷ niệm và gánh nặng quá khứ. Bác mong cho con có đủ khả năng để vượt qua thử thách lớn lao. Thế giới biết bao người, con đã chọn Việt Dzũng. Anh là món quà quê hương để lại cho hải ngoại. Bác mong con có được cặp nạng tinh thần để đứng vững với cuộc đời còn lại."

Bebe đứng lên, nước mắt rơi trên đôi nạng gỗ như những giọt lệ tình yêu.

"Con khổ lắm bác ơi". Hoàng Anh nói.

Chiều thứ bảy Bebe Hoàng Anh, môt mình lái xe từ Nam Cali suốt đêm lên San Francisco dự buổi Tưởng Nhớ Việt Dzũng vào chủ nhật. Chiều thứ hai, lại một mình lái xe về.

Nhà tôi nói: "Con lái xe một mình nên cẩn thận".

Bebe nói: "Con không đi một mình, luôn luôn có anh Dzũng ngồi bên cạnh."

Thực vậy. Vợ lái xe mà như có chồng vẫn ngồi bên cạnh. Suốt 7 giờ rong ruổi đường trường, cô Hòang Anh nhẹ nhàng, nhẩn nha cằn nhằn cậu Việt Dzũng. Anh đốt hết cuộc đời cháy trên đầu ngón tay...Anh nói loanh quanh dối trá em suốt bao năm. Tưởng là lừa được em sao. Em biết hết nhưng em không nói. Anh bay bướm với đàn bà, anh ăn nhậu với đàn ông. Em biết hết. Rồi sau cùng anh vẫn phải trở về, phải không?.

Bây giờ anh còn đi đâu nữa. Cô lái xe và tưởng như Việt Dzũng vẫn ngồi trân mình chịu trận bên cạnh. Chàng không nói được, bây giờ chỉ còn ngồi yên mà nghe nàng nói. Đây không phải là sân khấu Asia. Đây không phải là Radio Bolsa. Đây chỉ có 2 người đối thoại chuyện tình yêu. Dzũng suốt đời nói cho ngàn người nghe. Bây giờ đến lượt Hoàng Anh. Cô nói mà anh chàng không cãi được. Nhưng cô kể lể cho mà nghe vậy thôi. Nói cho mà biết thôi. Cô tha thứ hết. Việt Dzũng của cô, có thể đủ thói hư tật xấu của đàn ông nhưng mãi mãi vẫn là thần tượng của Hoàng Anh.

Vâng thưa Bác, con không lái xe một mình. Mãi mãi vẫn có Dzũng ngồi bên cạnh...

Tuesday, January 14, 2014

Võ Thị Hảo : Huyền ảo, độc tài và tội ác

Bìa quyển "Ngồi hong váy ướt" của Võ Thị Hảo.
      
Bìa quyển "Ngồi hong váy ướt" của Võ Thị Hảo.

Thụy Khuê
Dưới tựa đề khá xếch-xy Ngồi hong váy ướt là một tập 17 truyện ngắn, với những bức tranh siêu thực hoang vu, ngập mùi tử khí, viết từ ngòi bút của một người đàn ông đã chết "chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình viết lên những trang giấy trắng", về cái thế giới mà ông ta đã sống.

Sau hơn ba mươi năm kết thúc chiến tranh, những đề tài về chiến tranh dường như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi hong váy ướt, tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản. 

Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Diễn Châu, Nghệ An, nổi tiếng trên văn đàn với các tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, 1992, Chuông vọng cuối chiều, 1994, Người sót lại của rừng cười, truyện dài Giàn thiêu, 2003, vv...
 
Trong tác phẩm mới nhất, Võ Thị Hảo nhìn hội chứng chiến tranh, độc tài và tội ác như tác dụng nhân quả thể hiện qua những truyện ngắn huyền ảo. Cảm giác bị tấn công mãnh liệt bởi những mạnh vụn trái phá và những chân rết ung thư tội ác tàn phá nội tạng người đọc.
 
Người ta đã và sẽ còn bỏ nhiều thời giờ, ngân quỹ để nghiên cứu, viết sách, làm phim, phân tâm những lính Mỹ bị điên sau khi tham dự chiến tranh Việt Nam. Nhưng chưa ai nghĩ đến việc phân tâm lính Việt, người Việt, bởi dân tộc ta thuộc dạng "hơn người", hùng tính hơn người, chịu đựng hơn người, cần gì đến thứ khoa học phô trương, tốn tiền, phù phiếm, vô bổ.
 
Võ Thị Hảo chẳng phân tâm ai cả mà dùng phép phù thủy, cho chiến tranh, độc tài, hủ lậu và tham nhũng vào chung một rọ, xóc cho ngầu, phơi cho bốc hơi, toả khói, biến các chứng liệu hoá thân thành cây cỏ, đất trời, rắn rít, con ong, con nhện, đám mây, ngọn gió... Toàn bộ thiên nhiên trong không gian Võ Thị Hảo, sau nửa thế kỷ chiến tranh và độc tài, trở thành hậu thân của một thế giới, trước kia đã từng có người, đã từng là người. Những giá trị "vĩnh cửu" như tình yêu, tình người, nhân tính... đều đã bốc khói, bay đi, chỉ còn trơ lại đống sắt vỡ vụn của trái phá, sắc nhọn, đâm chém, vô luân và tàn ác.
 
Dưới tựa đề khá xếch-xy Ngồi hong váy ướt là một tập 17 truyện ngắn, với những bức tranh siêu thực hoang vu, ngập mùi tử khí, viết từ ngòi bút của một người đàn ông đã chết "chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình viết lên những trang giấy trắng", về cái thế giới mà ông ta đã sống.
 
Trang đầu tiên là Bùa, một truyện xẩy ra ở Thành Cổ Sơn Tây, là miền đất tổ lâu đời nhất. Sơn Tây, chính là nước Văn Lang, kinh đô Hùng Vương, Trưng Vương, Phùng Hưng và Ngô Quyền. Người ta nghi người chết đã lầm Sơn Tây với Quảng Trị, hoặc Sơn Tây bị biến thành Quảng Trị. Hoặc đoán chừng người Sơn Tây bị lệnh "câm" trở thành người Quảng Trị. Hoặc Sơn Tây sau khi "cháy chợ", bọn yêu quái bỗng "lớn phỗng lên", nhân dân Sơn Tây vỡ nợ, phá sản, trốn vào ma túy hoặc tự tử, biến thành nhân dân Quảng Trị, một thành cổ đang "thiu thiu ngủ" với những "oan hồn nửa thức nửa ngủ trên những đám mây trĩu sương tù đọng. Nước không chẩy và mây không bay". Một quán phở đêm, quy tụ đủ mọi hạng người đến gặm xương đáy nồi, thứ "xương bốc mả". Hàng phở bốc mả là trạm cuối của sông mê. Tại đây, người ta kể những chuyện rùng rợn, trong một thế giới người ma lẫn lộn. Một xã hội ăn xương bốc mả, ăn táo lê Trung Quốc ướp thuốc không thối, có người chết của quý chĩa thẳng lên trời, có con ma thiếu máu, chân quắp vào cột cây số 12, có người bán máu lấy tiền tiếp máu cho ma...
 
Bùa chỉ là khúc dạo đầu để đi vào những mạch sống, mà Mỵ Châu thả bước xuống trần mở vào lịch sử ngàn năm của những mạch sống khốc liệt ấy:
 
Pho tượng đá cụt đầu trong am Mỵ Châu một đêm chợt tỉnh sau bao nhiêu thế kỷ. Chiếc thân đi tìm lại đầu mình. Mỵ Châu nhớ lại những giây phút chót của cuộc đời, nhớ những mảnh lông ngỗng trắng tinh nàng rứt từ chiếc áo Trọng Thuỷ tặng, để dẫn đường cho chồng tìm mình trong cơn nguy biến, nhớ tiếng quân Triệu reo hò, nhớ tiếng vó ngựa Trọng Thuỷ "dựng ngược trên đầu hai cha con", nhớ tiếng thét rách gió của chàng, nhớ nhát kiếm cha già loáng trên gáy, đầu nàng rơi xuống, máu hoà với nước biển mặn chát. Đầu Mỵ Châu lưu lạc không ngừng, không bao giờ lắp lại được với thân. Mỵ Nương đi xuyên nhiều thế kỷ, lầm lũi, không đầu, lần từng trang sử, dừng chân trên am thờ nàng, nay đã trùng tu, nàng đã được xây nhà mới. Người ta dúi vào tay nàng cơ man của đút, lót tiền giả để mua tiền thật, mua sự bất tử. Cái giếng Trọng Thủy trầm mình, nay đã trùng tu thành lỗ huyệt láng xi măng cho tiện vét tiền du khách ném xuống. Thân nàng được phủ những chuỗi hạt nhựa, phủ lụa là gấm vóc "bóng lộn và hăng hắc độc" dệt từ quê hương Trọng Thủy. Mỵ Châu choáng váng, tìm chốn nương thân nhưng vô ích. Nàng không còn chỗ trên quê hương mình. Trong đền An Dương Vương đã trùng tu quê kệch, một đám mặt mũi đẹp đẽ béo tốt đang yến tiệc, "miệng ngo ngoe những cái đầu rắn". Mỵ Nương thấy mạch sống thế kỷ XXI tàn tệ hơn thế kỷ của nàng, trên đất nước Văn Lang đang xum xoe chào đón một thời kỳ bắc thuộc mới.
 
Hội ngộ là những bức tranh siêu thực chồng nhau theo một trật tự hắc ám: Một người đàn bà chồn đu đưa thân thể trong khu rừng độc, "nàng chun mũi nghiêng sang hướng bắc. Hướng bắc đến từ ngọn gió mang mùi của những đám cháy và của xương người. Nàng nghiêng hông về đằng nam. Hướng nam lờ lợ mùi bột ngọt và gươm đao." Một người đàn ông chỉ còn bả vai, không cổ, không tay, "một cánh tay đã chia cho phương nam, một cánh tay đã chia cho phương bắc. Chúng bị đạn tiện đứt lìa, trong hai lần khác nhau, một ở rừng, một ở biển". Một con ong lạc tổ loạng choạng trong đêm... Trên cánh và tấm lưng eo thắt, nồng nặc mùi ong Chúa, mùi ngục tù và tử khí. Con ong lạc đàn quờ quạng đâm sầm vào đầu vú người đàn ông không cổ không tay. Một con ong Chúa đang nằm thoi thóp, bỗng trở mình, nhận ra mùi phản trắc, nó hoàn toàn lai tỉnh, gửi "mật" lệnh "ngòn ngọt từ tử cung" -thứ mật ong Chúa dùng để mê hoặc và cầm tù đồng loại- huy động toàn bộ đàn ong thám tử đi truy lùng, xé xác con ong lạc tổ, bay trật đường rầy...
 
Hội ngộ giữ trọn vẹn sự bí mật của một văn bản thuần túy huyền ảo, là một bản thi họa giao duyên giữa đầu Ngô và mình Sở, tạo ra một thứ phi lý bức tử của một thế giới mà cõi sống phi nhân là phiên bản, là hậu thân của chiến tranh và đàn áp.
 
Người chăn bò thần thánh, là thứ hiện thực huyền ảo trắng trợn, vẽ hẳn một bức tranh khôi hài, hãi hùng: Tổ chức nhân đạo quốc tế gửi tặng đàn bò sữa cho một vùng mà nhà nghiên cứu của tổ chức này đã mục kích tận mắt cảnh cả trăm người cầm dao quắn xông vào tranh nhau xẻo thịt một con trâu chết, loáng cái hết nhẵn. Lễ "khánh thành bò" được tổ chức vô cùng trọng thể, vú bò được thắt nơ, cổ bò được đeo các khẩu hiệu kinh điển: "cần kiệm liêm chính", "học tập đạo đức Hồ Chí Minh", "cán bộ là đầy tớ của nhân dân", v.v... Mọi việc được phân công rành rẽ, đàn bò trở thành bò tập thể dưới sự quản lý của nông trường.
 
Rủi thay, ông chủ tịch nông trường lại có đứa con cậu trời. Một hôm ông đi họp vắng, nó và lũ bạn thèm rượu thịt bèn lấy dao xẻo phắt miếng vai con bò ngoại, xơi tái. Người cha về la rầy, thằng con Khổng Minh rỉ tai hiến kế... xẻo thịt bò mà vô can. Mỗi miếng thịt xẻo được thay thế bằng một chiếc bong bóng thổi phồng dán vào thân bò. Kết cục đàn bò ngoại trở thành trong suốt như bong bóng, một đàn bò thuần xương, không thịt. Thịt bò mừa mứa, ăn, bán không hết, đem đấm mõm cấp trên. Các nông trường viên chăn bò sợ bị đuổi không dám ho he. Các đoàn kiểm tra đã được nếm mùi bò ngoại đều chứng nhận những cỗ xương bò di động là bò đích thực. Thậm chí cả bọn rận, bọ chét, ve, mòng... cũng thoả mãn, chúng thả cửa no nê xơi tiệc sẵn trên thân bò lở lói, máu tràn vào miệng như lũ không cần vòi hút. Khi đã quán triệt nguồn lợi bò, ông chủ tịch nông trường bèn nhường chức lại cho người khác, xin cất nhắc lên chức to hơn, lần này có thể là nông trường chăn voi ngoại.
 
Bỗng đâu nhà nước nhận được một đơn kiện, bọn đầu đơn không ai xa lạ mà lại là bọn rận, bọ chét, ve, mòng, dĩn... thấy quyền lợi của chúng ngày càng có nguy cơ tận diệt, viết đơn tố cáo như vầy: "Đau xót vì tình trạng thịt rơi máu chảy của đàn bò, của tài sản tập thể bị xâm hại... Đàn bò hiện nay con nào cũng chỉ sót lại một mẩu thịt ở mông, còn tất cả da thịt và gân của chúng đều bị các chủ bò lần lượt xẻo đi và thay thế bằng những quả bóng trong suốt. Xin cấp trên trừng trị để làm gương..." Bọn ve mòng hý hửng đợi phép nước nghiêm minh, nào ngờ kết quả ngược lại: Trên đem toà án di động về "xét xử các tội phạm Ve, Mòng, Rận, Dĩn, bởi tiền sử chúng đen tối, hiện tại chúng mờ ám và tương lai của chúng không cải tạo được". Toà tuyên án tử hình cả bọn, hả hê coi như "đã triệt được nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Nào ngờ vẫn chưa hết, một tin sét đánh, ban kiểm tra đoàn bò quốc tế phôn về, đích thân đến tham quan. Thế là hoảng loạn, các phòng, các ban, các chủ bò xôn xao bàn cãi, quy trách nhiệm. Cuối cùng họ nhất trí ra chỉ thị :"Bởi các nông trường viên chăn bò vô trách nhiệm, trình độ khoa học kém cỏi, nên đã để cho đàn bò mất hết thịt, nay phải xẻo thịt mình đền vào". Bọn chăn bò thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, đành xẻo thịt mình đắp vào những chỗ trống. Đàn bò có da thịt trở lại. Một thế hệ Người chăn bò thần thánh mới lại xuất hiện, lần này họ không xẻo thịt bò nguyên chất, mà xẻo đàn bò đã được đắp thịt người.
 
Người đọc giật mình, quái đản, không hiểu từ đâu ra lối huyền ảo này ?
 
Truyện Huyền ảo, huyền hoặc hay hoang đường, tiếng Pháp fantastique, tiếng Việt có  nghiã: truyện ma quái, truyện hoang đường, truyện không có thật. Liêu trai chí dị là một loại huyền ảo kinh điển phương Đông, hoàn toàn khác với lối huyền ảo phương Tây hoặc châu Mỹ la tinh. Huyền ảo gắn bó sâu sắc với tôn giáo, triết lý và môi trường sống khác nhau của mỗi dân tộc.
 
Dòng huyền ảo lâu đời nhất có lẽ là huyền ảo Châu Mỹ la tinh, gắn bó với thánh kinh Maya, trong đó, con người được thần ngô nặn lên từ bắp ngô. Ngô đối với người Maya như gạo đối với người Việt. Những truyện cổ tích của người Maya xưa xây dựng trên một vũ trụ mà thiên nhiên là chủ thể. Mây, núi, sông nước, cỏ, cây... điều hoà sự quân bình thế giới và sinh ra con người. Trái ngược với các hình thức cổ tích Đông Tây: con người là chủ thể của muôn loài, thần thánh cũng là người.
 
Từ sự kiện thiên nhiên cây cỏ, muông thú đều có tiếng nói, đều có thể họa nên những hình thái nên thơ và dưỡng nuôi sự sống, người Maya đã tạo nên một khái niệm huyền ảo tự nhiên như ta ăn và thở. Sau này, các tác giả nổi tiếng Châu Mỹ la tinh đều dựa vào nguồn gốc văn hoá Maya của họ để tự tạo cho mình những hình thức huyền ảo cá biệt.
 
Ở Asturias, nhà văn Guatemala, là một thứ huyền ảo thuần khiết Maya, khái niệm "người ngô" (l'homme de maïs) vừa hiền lành, vừa bao quát thực tế: nếu không có ngũ cốc, làm sao con người sống sót, làm sao còn người. Asturias tranh đấu cho quê hương ông, chống lại chế độ thực dân, chống lại các thể chế độc tài, chống lại quyền lực của tư bản Mỹ áp đảo sự sống còn của nông dân trên nền đất Châu Mỹ la tinh.
 
Ở Marquez, nhà văn Colombia, là sự huyền ảo khốc liệt của những người dân da đỏ hận thù những kẻ chinh phục (conquistadors) đã cưỡng hiếp tổ tiên mình để sinh ra mình. Một mối căm thù tổ tiên, căm thù tác giả đẻ ra mình. Những quái thai, những bạo tàn, những tha hoá, loạn luân, những điềm, những mộng, những đầu người mình thú... trong truyện của Marquez, phản ảnh niềm uất ức truyền kiếp, khôn nguôi của những con người là sản phẩm, không phải của tình yêu mà của cuộc hãm hiếp tập thể một giống nòi, một dân tộc.
 
Về huyền ảo, Jean Paul Sartre phân tích: "Mô tả sự kỳ dị phi thường chưa phải là điều kiện cần và đủ để đạt tới huyền ảo. Một biến cố lạ kỳ, xẩy ra trong một xã hội có trật tự, có pháp lý, sẽ bị rơi vào vòng trật tự chung: Nếu bạn cho một con ngựa đột nhiên nói, thì tôi bảo nó bị ma làm trong chốc lát. Nhưng nếu bạn cho nó diễn thuyết dông dài suốt dọc hành trình qua rừng cây im lìm, trên nền đất bất động, tôi chấp nhận cho nó cái quyền nói, nhưng tôi không coi nó là ngựa nữa mà cho nó là người trá hình ngựa. Ngược lại, nếu bạn muốn làm cho tôi tin rằng con ngựa này là huyền ảo, thì bạn phải làm sao cho những hàng cây, đất đai và đồng ruộng cũng là huyền ảo nữa, mà bạn không cần nói ra".
 
Sartre viết tiếp: "Huyền ảo là một thế giới toàn diện mà sự vật biểu hiện một tư tưởng quyến rũ đòi đoạn, vừa bất thường vừa lôi cuốn, gặm nhấm trong cơ thể nhưng không thể diễn tả thành lời".
 
Và ông đưa ra một định nghiã huyền ảo: "Huyền ảo trình bầy hình ảnh lật ngược của sự hội tụ linh hồn và thể xác. Linh hồn chiếm chỗ của thể xác và thể xác chiếm chỗ của linh hồn. Để nhận diện hình ảnh này, chúng ta không thể dùng những ý tưởng sáng tỏ khúc triết, mà phải dùng những ý tưởng rắm rối, "huyền ảo", nói cách khác, chúng ta phải đi vào chỗ mờ ảo, với đầu óc trưởng thành, có văn hoá, với cá tính nhiệm mầu của một kẻ mơ mộng, của con người nguyên thuỷ, con người trẻ thơ." (Sartre, Aminadab, Situations I, Folio essais, trg 115).
 
Lối huyền ảo trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, phát sinh từ sự tùng xẻo, một "nghệ thuật" hành quyết mang đặc tính đông phương, có trong sử sách Tầu, Việt. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo mang chất nồi da xáo thịt, đặc tính Việt Nam. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo mang tính áp đảo phụ quyền, cha truyền con nối trong gia đình, trong dòng họ, trong xã hội, trong chính quyền, từ Khổng Mạnh truyền thẳng sang Xít Ta Lin, Mao Hồ, Lê Duẩn... không trung gian, không đứt đoạn. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo giao thoa độc tài và tham nhũng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã, tạo nên những quái thai người ăn thịt người kiểu Lỗ Tấn. Lối huyền ảo của Võ Thị Hảo có cái dã man trong xã hội Mạc Ngôn.
 
Những nhà văn phụ nữ miền Bắc như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, có đặc tính khốc liệt mà những nhà văn nữ trong Nam không có. So cái khốc liệt trong văn chương Võ Thị Hảo thì cái sắc sảo trong văn chương Túy Hồng hiền như bụt. Tại sao? Bởi miền Nam đàn bà chưa phải đi lính, chưa nhìn thấy cái khốc liệt của chiến tranh. Bởi Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo... sinh ra và lớn lên trong một môi trường không nhân nhượng. Dương Thu Hương đã chứng kiến cảnh đấu tố, đã đi đánh nhau. Võ Thị Hảo sinh sau, nhưng đã thu thập vốn liếng bạo lực của những người đã nhận nhưng phải gói ghém, giấu diếm trong lòng: những người mẹ, người chị, xung phong đi lính, đi hộ lý, trở về điên dại trong Rừng cười. Như nam châm, Hảo thu hút những khối u mà người xấu số để lại hôm qua, và hôm nay con em họ vẫn còn tiếp tục cúi đầu nhận độc tố của một gia đình, một xã hội, một thể chế, gọi là mới, nhưng tất cả đều cũ, đều cổ, đều mục nát, như đầu óc, như sự phục tòng của họ.
 
Là nhà văn dấn thân trong chiều dầy của hai chữ dấn thân, là phụ nữ tranh đấu, Võ biết nếu con người không thay đổi suy nghĩ, không biết suy nghĩ, thì đất nước không thể đứng dậy. Điều kiện tiên quyết làm thay đổi xã hội, thay đổi chính trị là người phụ nữ phải thay đổi trước. Sự bất phục tòng của họ sẽ là nền tảng của tất cả mọi thay đổi.
 
Chất huyền ảo trong truyện của Võ Thị Hảo, là sự huyền ảo của những bức tranh siêu thực trong đó con người đã bị cắt chân tay, mỗi tứ chi ném đi một nơi, nam bỏ ra bắc, bắc bỏ vào nam, chúng gọi nhau, đầu tìm cổ, cổ tìm vai, trong một định mệnh điên cuồng của xã hội âm ty trần thế. Cái thác loạn ấy sống lại trong những thông tin hàng ngày, trong những vụ án mạng như cơm bữa, trong những hàng tin xe cán chó: con giết cha, chồng giết vợ, dẫy đầy trên mặt báo. Võ Thị Hảo lượm lặt những tin tức chó cán, viết ra, đặt nó trong cái huyền hoặc hàng ngày của cuộc sống. Ngòi bút của chị lột trần mặt trái bi kịch, tìm đến chiều sâu lịch sử của bi kịch, từ đấy Hảo chỉ đích danh tội ác, chỉ cái thủ phạm nấp đằng sau tội ác, chỉ cái cha đẻ của tội ác để vạch ra sự ngu muội của con người. Mục đích của Võ Thị Hảo là vén màn phát giác sự ngu muội của con người. Con người mụ mị chấp nhận độc tài, con người gật đầu tất cả để được yên thân, con người bị đàn áp tư tưởng, cúi mọp chịu phận. Võ Thị Hảo muốn giải phẫu, móc cái mê, cái sợ, ra khỏi trái tim con người.
 
Một mình một ngựa, vén màn đối lập bằng cách xây dựng thành lũy huyền ảo trên những con người đã bị xé xác, hồn phanh trăm mảnh, để chống lại thành trì kiên cố xây bằng vi khuẩn tham nhũng, lừa đảo, trộm cắp, điêu ngoa của những con ong Chúa mê hoặc đồng loại bằng thứ mật ngọt giết người. Hiện thực huyền ảo của Võ Thị Hảo là cuộc trực chiến giữa hai thành trì. Võ một mình một trận chiến. Một mình một nghiã địa.

Thụy Khuê

 Paris, 24/11/2012

Wednesday, November 27, 2013

Nhân mùa lễ Tạ Ơn, tôi xin gửi đến quý chiến hữu, văn hữu bài thơ “Tạ Ơn” của Phạm Trần Anh gọi là “Tạ ơn Đời, Tạ ơn Người” đã cho chúng ta một cuộc sống may mắn hơn nhiều người. Cầu chúc tất cả mọi người chan hòa tình cảm thương yêu nồng ấm, cầu chúc “Mùa Xuân Dân Tộc” sẽ đến với đồng bào khốn khó nơi quê nhà, ngày đó sẽ đến với chúng ta  không xa…


 


Tạ ơn đời đã cho ta


Tình yêu dịu ngọt lụa là không quên

 

Tạ ơn cha mẹ chưa đền


Tạ ơn em những buồn phiền em cho


Tạ ơn đời những âu lo


Tạ ơn ai đã lo cho cuộc đời


Tạ ơn ngày tháng tuyệt vời


Tạ ơn em đã một thời dấu yêu



Tạ ơn bóng dáng diễm kiều


  Để ta có những buổi chiều vẩn vơ…


Tạ ơn ai đã ơ hờ

Tạ ơn ôi những vần thơ tuôn trào


Tạ ơn cay đắng ngọt ngào


Tạ ơn gió nhẹ thì thào mây bay


Tạ ơn cả những cơn say


Cho ta quên hết tháng ngày buồn tênh



Tạ ơn nỗi nhớ mông mênh


Ba chìm bảy nổi lênh đênh cuộc đời


Tạ ơn đất nước tuyệt vời


Tạ ơn Tổ Quốc muôn đời Việt Nam …




TẠ ƠN


Tạ ơn đất nước thứ hai


Cưu mang ta những tháng ngày lưu vong


Bao năm vận nước long đong


Lòng ta vẫn nhớ vẫn mong ngày về …



Dù cho ngày tháng lê thê


Làm sao quên được lời thề nước non


Dù cho sông cạn đá mòn


Hồn thiêng sông núi sắt son lời thề …



Ngày mai ta sẽ trở về


Để ta sống lại tình quê ngọt ngào …


Quê hương đẹp tựa trăng sao


Mùa xuân dân tộc dâng trào ý thơ …



PHẠM TRẦN ANH


 Kính tặng tất cả đồng bào Việt Nam 

 




Thứ Năm ngày 28/11/2013 sẽ là Lễ Tạ Ơn tại Mỹ. Trân trọng mời đọc bài viết đặc biệt cho mùa lễ tạ ơn năm nay của tác giả Hoàng Thanh. Cô tên thật Võ Ngọc Thanh, một dược sĩ thuộc lớp tuổi 30’., hiện là cư dân Westminster, Orange County. Bài viết về Lễ Tạ Ơn của cô mang tựa dề "Xin Cám Ơn Cuộc Ðời" kể lại câu chuyện xúc động, giản dị mà khác thuờng, bắt đầu từ cái bình thuờng nhất: " Chỉ với một nụ cuời..." Tựa đề mới đuợc đặt lại theo tinh thần bài viết.

*

Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Tôi vẫn còn nhớ, lần đầu tiên khi nghe nói về Lễ Tạ Ơn, tôi thầm nghĩ, "Dân ngoại quốc sao mà... "quởn" quá, cứ bày đặt lễ này lễ nọ, màu mè, chắc cũng chỉ để có dịp bán thiệp, bán hàng để nguời ta mua tặng nhau thôi, cũng là một cách làm business đó mà..." 


Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó đuợc nghỉ làm, và có một buổi tối quây quần ăn uống với gia đình. Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa của ngày Lễ Tạ Ơn.

Thời gian này tôi đang thực tập ở một Pharmacy để lấy bằng Duợc Sĩ. Tiệm thuốc này rất đông khách, cả ngày mọi nguời làm không nghỉ tay, điện thoại lúc nào cũng reng liên tục, nên ai nấy cũng đều căng thẳng, mệt mỏi, dễ đâm ra quạu quọ, và hầu như không ai có nổi một nụ cuời trên môi.

Tiệm thuốc có một bà khách quen, tên bà là Josephine Smiley. Tôi còn nhớ rất rõ nét mặt rất phúc hậu của bà. Năm đó bà đã gần 80 tuổi, bà bị tật ở tay và chân nên phải ngồi xe lăn, lại bị bệnh thấp khớp nên các ngón tay bà co quắp, và bà lại đang điều trị ung thư ở giai doạn cuối.

Cứ mỗi lần bà đến lấy thuốc (bà uống hơn muời mấy món mỗi tháng, cho đủ loại bệnh), tôi đều nhìn bà ái ngại. Vì thấy rất tội nghiệp cho bà, nên tôi thuờng ráng cuời vui với bà, thăm hỏi bà vài ba câu, hay phụ đẩy chiếc xe lăn cho bà. Nghe đâu chồng bà và đứa con duy nhất bị chết trong một tai nạn xe hơi, còn bà tuy thoát chết nhung lại bị tật nguyền, rồi từ dó bà bị bệnh trầm cảm (depressed), không đi làm được nữa, và từ 5 năm nay thì lại phát hiện ung thư. Mấy nguời làm chung trong tiệm cho biết là bà hiện sống một mình ở nhà duỡng lão.

Tôi vẫn còn nhớ rất rõ vào chiều hôm truớc ngày lễ Thanksgiving năm 1993, khi bà đến lấy thuốc. Bỗng dưng bà cuời với tôi và đưa tặng tôi một tấm thiệp cùng một ổ bánh ngọt bà mua cho tôi. Tôi cám ơn thì bà bảo tôi hãy mở tấm thiệp ra đọc liền đi.

Tôi mở tấm thiệp và xúc động nhìn những nét chữ run rẩy, xiêu vẹo:


Dear Thanh,

My name is Josephine Smiley, but life does not "smile" to me at all. Many times I wanted to kill myself, until the day I met you in this pharmacy. You are the ONLY person who always smiles to me, after the death of my husband and my son. You made me feel happy and help me keep on living. I profit this Thanksgiving holiday to say "Thank you", Thanh.

Thank you, very much, for your smile...

(Thanh thân mến,

Tên tôi là Josephine Smiley, nhưng cuộc sống Không có "nụ cười" với tôi cả. Nhiều lần tôi muốn tự tử, cho đến ngày tôi vào tiệm thuốc tây này. 


Cô là người luôn luôn mỉm cười với tôi, sau cái chết của chồng tôi và con trai tôi. 


Cô làm tôi cảm thấy hạnh phúc và giúp tôi tiếp tục sống. Nhân dịp ngày Lễ Tạ Ơn để nói lời "Cảm ơn", Thanh.


Cảm ơn cô, rất nhiều, vì nụ cười của cô ...) 


Rồi bà ôm tôi và bà chảy nuớc mắt. Tôi cũng vậy, tôi đứng mà nghe mắt mình uớt, nghe cổ họng mình nghẹn... Tôi thật hoàn toàn không ngờ được rằng, chỉ với một nụ cuời, mà tôi đã có thể giúp cho một con nguời có thêm nghị lực để sống còn. 


Ðó là lần đầu tiên, tôi cảm nhận được cái ý nghĩa cao quý của ngày lễ Thanksgiving.

Ngày Lễ Tạ ơn năm sau, tôi cũng có ý ngóng trông bà đến lấy thuốc truớc khi đóng cửa tiệm. Thì bỗng dưng một cô gái trẻ dến tìm gặp tôi. Cô đưa cho tôi một tấm thiệp và báo tin là bà Josephine Smiley vừa mới qua đời 3 hôm truớc. Cô nói là lúc hấp hối, bà đã đưa cô y tá này tấm thiệp và nhờ cô đến đưa tận tay tôi vào đúng ngày Thanksgiving. Và cô ta đã có hứa là sẽ làm tròn uớc nguyện sau cùng của bà. Tôi bật khóc, và nuớc mắt ràn rụa của tôi đã làm nhòe hẳn đi những dòng chữ xiêu vẹo, ngoằn nghèo trên trang giấy:

My dear Thanh, 


I am thinking of you until the last minute of my life.
I miss you, and I miss your smile...
I love you, my "daughter".. .

( Thanh thân yêu,

Tôi đang nghĩ đến cô Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời tôi.
Tôi nhớ đến cô, và tôi nhớ nụ cười của cô ...
Tôi yêu cô , "con gái" của tôi.. .)


Tôi còn nhớ tôi đã khóc sưng cả mắt ngày hôm đó, không sao tiếp tục làm việc nổi, và khóc suốt trong buổi tang lễ của bà, nguời "Mẹ American" đã gọi tôi bằng tiếng "my daughter"... 


Truớc mùa Lễ Tạ Ơn năm sau đó, tôi xin chuyển qua làm ở một pharmacy khác, bởi vì tôi biết, trái tim tôi quá yếu đuối, tôi sẽ không chịu nổi niềm nhớ thương quá lớn, dành cho bà, vào mỗi ngày lễ đặc biệt này, nếu tôi vẫn tiếp tục làm ở pharmacy đó. 


Mãi cho dến giờ, tôi vẫn còn giữ hai tấm thiệp ngày nào của nguời bệnh nhân này. Và cũng từ đó, không hiểu sao, tôi yêu lắm ngày Lễ Thanksgiving, có lẽ bởi vì tôi đã "cảm" được ý nghĩa thật sự của ngày lễ đặc biệt này. 


Thông thuờng thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt. Mọi nguời đều mua một tấm thiệp, hay một món quà nào đó, đem tặng cho nguời mình thích, mình thương, hay mình từng chịu ơn. Theo phong tục bao đời nay, thì trong buổi họp mặt gia đình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là món gà tây (tuckey). 


Từ mấy tuần truớc ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm sẵn cũng có... Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con gà bị giết chết, làm thịt cho mọi nguời ăn nhậu. 


Nguời Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên thuờng làm món gà ta, "gà đi bộ." Ngày xưa tôi cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày biết Ðạo, tôi không còn ăn thịt gà nữa. Từ vài tuần truớc ngày lễ, hễ tôi làm được việc gì tốt, dù rất nhỏ, là tôi lại hồi huớng công đức cho tất cả những con gà, tây hay ta, cùng tất cả những con vật nào đã, đang và sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn.
Từ hơn 10 năm nay, cứ mỗi năm dến Lễ Tạ Ơn, tôi đều ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những buổi "Free meals" tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những nguời không nhà. Có đến với những bữa cơm như thế này, tôi mới thấy thương cho những nguời dân Mỹ nghèo đói, Mỹ trắng có, Mỹ đen có, nguời da vàng cũng có, và có cả nguời Việt Nam mình nữa. Họ đứng xếp hàng cả tiếng đồng hồ, rất trật tự, trong gió lạnh mùa thu, nhiều nguời không có cả một chiếc áo ấm, răng đánh bò cạp...để chờ đến phiên mình được lãnh một phần cơm và một chiếc mền, một cái túi ngủ qua đêm. 


Ở nơi đâu trên trái dất này, cũng luôn vẫ
n còn rất rất nhiều nguời đang cần những tấm lòng nhân ái của chúng ta... 


Nếu nói về hai chữ "TẠ ƠN" với những nguời mà ta từng chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang ơn một hay nhiều nguời khác. Chúng ta được sinh ra làm nguời, đã là một ơn sủng của Thuợng Ðế. Như tôi đây, có đuợc ngày hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng lại là ơn Cha, ơn Mẹ, ơn Thầy... 


Cám ơn quê hương tôi -Việt Nam, với hai mùa mưa nắng, với những nguời dân bần cùng chịu khó. Quê hương tôi- nơi đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương tôi, là nỗi nhớ, niềm thương của tôi, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê nguời... 


Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi duỡng con cho đến ngày truởng thành. Cám ơn Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng suốt gần nửa thế kỷ qua... 


Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học.... 


Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu dụng cho đất nuớc, xã hội... 


Cám ơn các chị, các em tôi, đã xẻ chia với tôi những tháng ngày cơ cực nhất, những buổi đầu đặt chân trên xứ lạ quê nguời, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã hay thất bại... 


Cám ơn tất cả bạn bè tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm - buồn vui- những món quà vô giá mà không sao tôi có thể mua được. Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời áo trắng của tôi không có chút gì dể mà lưu luyến cả... 


Cám ơn nhỏ bạn thân ngày xưa, đã "nuôi" tôi cả mấy năm trời Ðại học, bằng những lon "gigo" cơm, bữa rau, bữa trứng, bằng những chén chè nho nhỏ, hay những ly trà đá ở căn tin ngày nào. 


Cám ơn các bệnh nhân của tôi, đã ban tặng cho tôi những niềm vui trong công việc. Cả những bệnh nhân khó tính nhất, đã giúp tôi hiểu thế nào là cái khổ, cái đau của bệnh tật... 


Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị của đồng tiền, để tôi hiểu mình không nên phung phí, vì đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công lao khó nhọc... 


Cám ơn những nguời tình, cả những nguời từng bỏ ra đi, đã giúp tôi biết đuợc cảm nhận đuợc thế nào là Tình yêu, là Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly. 


Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên đi chút sầu muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để nhớ, để thương... 


Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc dời, để nhận ra cuộc sống này là vô thuờng... để từ đó bớt dần "cái tôi"- cái ngã mạn của ngày nào... 


Xin cám ơn tất cả... những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì: 


" Trăm năm trước thì ta chưa gặp,
Trăm năm sau biết gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau..." 


Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn đến, tôi lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những người thân thương, và những nguời đã từng giúp đỡ tôi. 


Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói "Con thương Mẹ", hay một tấm thiệp, một cành hồng. Tình thương, là phải đuợc cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không?

Xin cám ơn cuộc đời...



Hoàng Thanh