Thursday, August 28, 2014

(VNTB)-“Tự do cho Điếu Cày”: Hy vọng “đặc xá” lớn dần

Đăng bởi Eric hwang vào Thứ Năm, ngày 28 tháng 8 năm 2014 | 28.8.14

Phạm Chí Dũng

Đã đến công đoạn “xin tha tù”

(VNTB) - Sáng hôm 28/8/2014, tức chỉ còn vài ngày nữa sẽ đến Quốc khánh Việt Nam 2/9, trang Facebook của Nguyễn Trí Dũng, con trai của người khởi xướng “Câu lạc bộ nhà báo tự do” Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, loan tin:

“Cách đây 5 phút, cha tôi là ông Nguyễn Văn Hải đã gọi điện về nhà và báo cho gia đình biết Bộ công an đã vào phòng giam để yêu cầu viết đơn "xin tha tù" nhưng bất thành. Cha tôi nhận định bản thân ông không có tội và bị bắt giam một cách tùy tiện không bản án. Vậy nên đơn duy nhất ông viết là đơn "yêu cầu giải quyết ra tù".

Ông gửi lời cám ơn đến các tổ chức và các nhân vật đấu tranh và ủng hộ dân chủ trong và ngoài nước và nhắc lại những điều khoản trong Hiến Pháp cũng như luật pháp quốc tế mà nhà cầm quyền Việt Nam đã vi phạm khi đàn áp bắt bớ những người đấu tranh dân chủ, nhân quyền và truyền thông độc lập.

Xin cô bác anh chị hãy lưu tâm rằng người tù có thể vẫn không được thả, nhưng họ vẫn giàn xếp tin tức để tự chúng ta tung ra để hòng giảm sự tập trung vào những người tù mới bị bắt giam vô cớ tương tự như phiên tòa xử 3 nhà bất đồng ở Cao Lãnh- Đồng Tháp vừa qua. Vậy nên khi hợp sức loan tin xin đưa kèm dòng status bên trên hướng về phiên tòa ở Đồng Tháp. Xin cám ơn!”.

Cử chỉ tương đồng

Một cử chỉ tương đồng khá “thú vị” của cơ quan công an Việt Nam là vào khoảng từ đầu đến giữa tháng 6/2014, họ cũng yêu cầu Đỗ Thị Minh Hạnh - một trong những người khởi xướng phong trào công đoàn độc lập mà sau đó trở thành tù nhân bất đắc dĩ - phải ký một số giấy tờ mang tính “khoan hồng” và “xin tha tù”. Nhưng “Cánh chim báo bão” Minh Hạnh đã khước từ thẳng thừng.

Cuối tháng 6/2014, Đỗ Thị Minh Hạnh nghiễm nhiên được tự do trước thời hạn án tù mà không kèm theo bất cứ điều kiện ràng buộc nào. Không những thế, vài tháng sau cựu tù nhân lương tâm này đã chính thức “khai trương” tổ chức Lao động Việt ngay tại đất nước mà hình thức công đoàn tự do vẫn bị coi là “bất hợp pháp”.

Cần nhắc lại, vào ngày 6/8/2014, trùng với thời điểm Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain và đồng viện dân chủ Sheldon Whitehouse đến Hà Nội, gia đình của Điếu Cày bất ngờ nhận giấy mời của Chi cục thi hành án dân sự quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu thay mặt cho ông Hải đóng tiền án phí sơ thẩm và phúc thẩm hình sự để “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”.

Dù chỉ là động tác hết sức “vi mô”, nhưng động thái giấy mời “đóng tiền án phí” mới diễn ra đã khiến rộ lên dự đoán về khả năng Điếu Cày có thể được trả tự do trong không bao lâu nữa.

Thậm chí ngay trong tháng Tám này.

“Khỏe re như con bò kéo xe”

Xét về “nhân thân” và “quá trình công tác”, Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải chính là một trong những tù nhân lương tâm kỳ cựu và có tiếng nhất ở Việt Nam, bị bắt và bị xử án đến hàng chục năm tù giam chỉ vì đấu tranh phản kháng Trung Quốc.

Điếu Cày cũng là người luôn nằm trong danh sách ưu tiên mà Chính phủ Mỹ thường trao cho phía Việt Nam để đòi hỏi trả tự do. Tại cuộc Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền (UPR) đối với Nhà nước Việt Nam ở Geneva, Thụy Sỹ vào tháng 2/2014, đoàn Mỹ đã đặt thẳng yêu sách là Việt Nam phải phóng thích vô điều kiện các tù nhân lương tâm, trong đó có Điếu Cày.

Nếu có thể so sánh, cần nhắc lại là ngay trước và sau chuyến công du Hà Nội của nữ Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách chính trị Wendy Sherman của Hoa Kỳ đến Hà Nội vào đầu tháng 3/2014, Nhà nước Việt Nam đã phóng thích một loạt 5 tù nhân lương tâm, kể cả một người bị coi là “rất cứng đầu” như ông Cù Huy Hà Vũ.

“người tù xuyên thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu nay đã tự do

Trường hợp “người tù xuyên thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu, với 37 năm trong bốn bức tường đen đúa và bít bùng, cho biết từ trước tết 2014, ông cũng đã nhận yêu cầu từ cơ quan công an để ký giấy “xin khoan hồng”, nhưng ông đã hồn nhiên trả lời là ông có tội gì hết.

Ngay sau khi ra tù, ông Cầu lập tức làm các trang mạng phấn chấn với bài hát tự sáng tác “Khỏe re như con bò kéo xe”và hình ảnh ôm guitar rất điệu nghệ của ông.

Một lần nữa, hãy quay trở lại cuộc họp báo, mà cách nào đó có thể ví với hình ảnh “bò kéo xe”, của Thượng nghị sĩ John McCain vào đầu tháng 8/2014 tại Hà Nội: “Những gì Mỹ có thể làm được tùy thuộc vào tiến bộ của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền. Mỹ đánh giá cao các tiến bộ của Việt Nam trong các tiến bộ này trong đó có tham gia ký kết công ước quốc tế chống tra tấn cũng như lĩnh vực tôn giáo. Phía Việt Nam công nhận những việc này nhiều hơn nữa, sẽ tốt cho ổn định, thịnh vượng và thành công của Việt Nam”.

Nhưng tất nhiên phải là “những tiến bộ có thể chứng minh được” theo cách nói của người Mỹ.

Tín hiệu tự do cho Điếu Cày cũng bởi thế đang có chiều hướng vươn tỏa vào chính những ngày này.

 Phạm Chí Dũng

Tuesday, August 26, 2014

Người Việt đầu tiên nhận giải thưởng khoa học danh giá

(Dân trí) - Lê Viết Quốc, hiện đang làm việc tại Google, đã trở thành người Việt Nam đầu tiên đạt được giải thưởng toàn cầu TR35 dành cho 35 nhà sáng tạo trẻ dưới 35 tuổi có cống hiến xuất sắc trong lĩnh vực công nghệ, do tạp chí công nghệ danh tiếng Technology Review trao tặng.

Mới đây, tạp chí công nghệ danh tiếng và lâu đời của Mỹ Technology Review (thuộc Học viện công nghệ Massachusetts MIT) vừa công bố danh sách những người được vinh danh trao giải thưởng TR35 năm 2014, dành cho 35 nhà sáng tạo trẻ có cống hiến xuất sắc nhất trong các lĩnh vực công nghệ, khoa học, y tế... đáng chú ý, trong đó có Lê Viết Quốc, hiện đang làm nhà khoa học làm việc tại Google.


Sinh năm 1982 tại một ngôi làng nhỏ ở Hương Thủy (Thừa Thiên-Huế), khu vực mà Lê Viết Quốc sinh ra không có điện, tuy nhiên Lê Viết Quốc thường xuyên đến thư viện gần nhà để nghiên cứu kỹ càng về những phát minh thông qua những trang sách và mơ ước một ngày nào đó sẽ có những phát minh của riêng mình.


Đến năm 14 tuổi, Lê Viết Quốc cho rằng nhân loại sẽ được giúp đỡ bởi cỗ máy đủ thông minh để có khả năng tự sáng chế. Chính suy nghĩ này đã quyết định đến tương lai của Lê Viết Quốc khi anh định hướng theo con đường nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo.


Tiến sĩ Lê Viết Quốc là người Việt đầu tiên nhận giải thưởng danh giá TR35 (Ảnh: Facebook nhân vật)

Tiến sĩ Lê Viết Quốc là người Việt đầu tiên nhận giải thưởng danh giá TR35 (Ảnh: Facebook nhân vật)


Tốt nghiệp trường chuyên Quốc học Huế, Lê Viết Quốc tiếp tục theo học tại Trường Đại học Quốc gia Australia (Úc) và sau đó thực hiện nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Đại học Stanford (Mỹ) về trí tuệ nhân tạo. Trong quá trình theo học tại Úc, Lê Viết Quốc nhận thấy rằng các phần mềm trí tuệ nhân tạo thường phải có sự giúp đỡ và can thiệp của con người, buộc người dùng phải nhập trước dữ liệu để chúng tập trung xử lý. Kiểu công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ này không thu hút Quốc.


Trong khi đang là nghiên cứu sinh tại Đại học Stanford, Lê Viết Quốc đã vạch ra một chiến lược để làm cho phần mềm tự động học hỏi. Thực tế trước đó giới nghiên cứu đã có những kết quả khả năng, nhưng rất chậm, về việc phát minh phương pháp tự học cho máy tính, gọi là “deep learning”, trong đó sử dụng các hệ thống máy tính mô phỏng tế bào thần kinh con người.


Lê Viết Quốc đã tìm ra cách để tăng tốc nghiên cứu này, bằng cách thiết lập các mạng lưới máy tính mô phỏng tế bào thần kinh với quy mô lớn gấp 100 lần thông thường, cho phép truy xuất dữ liệu lớn hơn gấp hàng ngàn lần. Đây là một giải pháp đủ sức thu hút để “gã khổng lồ” Google quyết định tuyển dụng Lê Viết Quốc vào làm việc. 


Tại Google, Lê Viết Quốc tiếp tục nghiên cứu và phát triển công nghệ của mình dưới sự hướng dẫn của Andrew Ng, một giáo sư nổi tiếng chuyên về nghiên cứu trí tuệ nhân tạo tại đại học Stanford.


Khi kết quả nghiên cứu được công bố vào năm 2012, Google đã châm ngòi cho một cuộc chạy đua về đầu tư nghiên cứu công nghệ “deep learning” giữa các “ông lớn” như Facebook, Microsoft... 


Công nghệ này sau đó đã được áp dụng thử nghiệm bằng cách xây dựng hệ thống có thể tự động nhận diện mèo, con người và hơn 3.000 đối tượng khác nhau chỉ bằng cách xử lý 10 triệu hình ảnh từ các đoạn video được đăng tải trên Youtube mà không cần có sự hướng dẫn của con người. Công nghệ của Lê Viết Quốc đã cho thấy rằng máy móc vẫn có thể tự học hỏi mà không cần có sự trợ giúp từ con người và có thể đạt một mức độ cao về sự chính xác.


Hiện tại công nghệ của Lê Viết Quốc đang được sử dụng trong hệ thống phần mềm tìm kiếm hình ảnh và nhận diện giọng nói của Google. 


Được thành lập từ năm 1999 bởi tạp chí công nghệ Technology Review (thuộc quyền quản lý của Học việc công nghệ MIT), giải thưởng thường niên TR35 được trao cho những nhà phát minh có tuổi đời dưới 35, trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm y sinh học, điện toán, viễn thông, năng lượng, vật liệu, thiết kế web và giao thông vận tải.

Những người được trao giải là các cá nhân có công trình nghiên cứu được giới khoa học đánh giá cao và hứa hẹn sẽ được áp dụng trong tương lai.

Nhiều tên tuổi lớn của giới công nghệ đã từng được trao giải thưởng TR35, bao gồm Larry Page và Sergey Brin (2 nhà đồng sáng lập của Google), Jonathan Ive (thiết kế huyền thoại của Apple, Linus Torvalds (cha đẻ của hệ điều hành Linux)...

Tiến sĩ Lê Viết Quốc là người Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng danh giá này.

Saturday, August 16, 2014

NHỮNG LỰA CHỌN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Nguyễn Vũ Bình

3/3/2014

I/ THỰC TRẠNG NỀN KINH TẾ ĐẤT NƯỚC

     

Trong thời gian gần hai năm trở lại đây, nền kinh tế VN đã gặp nhiều biến động theo hướng khủng hoảng toàn diện. Ban đầu là sự sụt giá, sự tồn đọng bất động sản kéo theo sự phá sản, giải thể của hàng loạt doanh nghiệp. Sự sụp đổ của thị trường bất động sản đã ảnh hưởng tới tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, như xây dựng, sản xuất sắt thép, xi-măng, hàng nội thất, vận tải…đến nay, không còn ngành nghề nào, không còn cá nhân nào không chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng toàn diện của nền kinh tế. Về cơ bản, tất cả đều đồng ý, đây là một cuộc khủng hoảng kinh tế lớn.

Tuy nhiên, nhìn nhận và đánh giá về cuộc khủng hoảng này có hai luồng ý kiến.

Luồng ý kiến thứ nhất, cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế này, cũng như những cuộc khủng hoảng kinh tế trước đó, và cũng như các nước khác vẫn thỉnh thoảng có các cuộc khủng hoảng, rất đáng lo ngại nhưng vẫn có thể vượt qua được. Đây cũng là ý kiến chính thống của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam hiện nay, và phần lớn những người mong muốn nền kinh tế phục hồi, không ảnh hưởng tới thể chế kinh tế - chính trị mà họ đang được hưởng lợi từ đó.

Luồng ý kiến thứ hai, cho rằng, nếu không có sự đột phá về chính trị, dẫn tới sự đột phá về niềm tin của nhân dân, thì nền kinh tế Việt Nam có nhiều khả năng sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của chế độ. Chúng ta đi vào phân tích các lập luận của hai luồng quan điểm nêu trên.

 

1/ Quan điểm lạc quan, tin vào sự phục hồi của nền kinh tế dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của đảng Cộng sản VN.


Về cơ bản, các lập luận của luồng ý kiến này dựa vào các yếu tố sau:

 

a/ Các số liệu về nền kinh tế được nhà nước công bố, và một phần số liệu của quốc tế. Trước hết, tuy khủng hoảng kinh tế, nhưng GDP của Việt Nam vẫn tăng trưởng ở mức cao của thế giới và châu Á (năm 2012 là 5,25%; năm 2013 là 5,42%). Số nợ xấu của các ngân hàng thương mại chỉ là 5-7% theo số liệu của Việt Nam và 10-15% theo số liệu của quốc tế vẫn chưa phải quá lo ngại; số nợ của chính phủ theo nhà nước công bố là 48,4%GDP, một số chuyên gia kinh tế cho rằng số nợ chiếm 95% GDP, đó cũng đáng lo ngại nhưng vẫn có khả năng thanh toán. Số doanh nghiệp bị phá sản trong mấy năm qua rất lớn, nhưng số doanh nghiệp đang ký mới cũng rất nhiều. Thị trường chứng khoán đang phục hồi chứng tỏ sự ghi nhận đà phục hồi của nền kinh tế.

 

b/ Trong quá khứ, đã có những cuộc khủng hoảng kinh tế tương tự, thậm chí còn nặng nề hơn nhưng vẫn vượt qua được, điển hình là thời kỳ năm 1985 – 1986, nền kinh tế khủng hoảng, chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Các nước khác vẫn thường xảy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế tương tự.

 

c/ Khả năng lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt Nam vượt qua các thử thách hiểm nghèo

 

Trên một khía cạnh nào đó, không phải những cơ sở lập luận của quan điểm này không có lý. Tuy nhiên, những ý kiến phản biện cho quan điểm này tập trung vào một số điểm sau.

 

- Những số liệu về kinh tế của nhà nước công bố không đủ cơ sở tin tưởng và không nói hết được thực trạng của nền kinh tế. Như bài viết “Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế Việt Nam” số liệu về nợ xấu của ngân hàng đã đưa ra, thậm chí số liệu của quốc tế cũng hoàn toàn không chính xác. Nợ xấu của ngân hàng đưa ra chỉ là 5-7% tổng dư nợ tín dụng, số liệu của quốc tế là 10-15%, nhưng qua sự phân tích, số nợ thực là 80-90% tổng dư nợ (kể cả trường hợp các trái phiếu của chính phủ có giá trị, thì số nợ thực cũng phải lên tới 50-60% tổng dư nợ). Như vậy, có sự chênh lệch rất lớn giữa số liệu được công bố và con số thực. Mặt khác, như chúng ta biết, tất cả các số liệu kinh tế của Nhà nước đưa ra, không hề năm nào nói tới nợ xấu ngân hàng, nợ công của chính phủ, tất cả đều tốt đẹp, báo chí hết lời ca ngợi. Thậm chí, báo Nhà Kinh tế của Anh còn đánh giá, Việt Nam ngôi sao kinh tế đang lên (2008).

Nhưng đến một thời điểm, chúng ta thấy “đùng một cái” một số nợ khổng lồ của doanh nghiệp nhà nước xuất hiện, nợ xấu của ngân hàng xuất hiện. Điều này chứng tỏ, các số liệu của nhà nước công bố về kinh tế hầu như vô giá trị. Những số nợ của DNNN, nợ xấu của ngân hàng đến lúc không thể che dấu được mới buộc phải công bố. Mở rộng ra, chúng ta biết rằng, năm 1997, có trên 2/3 số xã của tỉnh Thái Bình đã khiếu kiện tập thể vì sự tham nhũng của các quan chức địa phương trong khi các đảng bộ (xã) của Thái Bình được đánh giá 95-98% trong sạch vững mạnh. Vậy nên, căn cứ vào số liệu kinh tế được báo cáo để nói về sự tốt đẹp và phục hồi của nền kinh tế là thiếu cơ sở.

  

- Trong quá khứ, năm 1985-1986 nền kinh tế VN đã gặp khủng hoảng nghiêm trọng, kinh tế kiệt quệ, viện trợ bị cắt, nền kinh tế bị cô lập, cấm vận. Nhưng khi đó, mức sống của người dân vô cùng thấp, nền kinh tế khủng hoảng chỉ làm gia tăng sự nghèo khổ của người dân, chứ không tạo ra được cú sốc nào. Mặt khác, dự trữ lòng tin của người dân vẫn còn, nhất là khi đó, đảng Cộng sản đã phát động công cuộc đổi mới nền kinh tế, trên lý thuyết là toàn diện, triệt để.

  

- Khả năng lãnh đạo của đảng Cộng sản giúp cho chế độ vượt qua các cuộc khủng hoảng trong quá khứ là rất đáng kể. Khả năng lèo lái của đảng CS đưa chế độ thoát hiểm được hỗ trợ rất nhiều bởi các yếu tố: hào quang quá khứ (chiến thắng mấy cuộc chiến tranh); sự đồng thuận trong đảng CS; dự trữ lòng tin của người dân…đến nay, thật rõ ràng, các yếu tố này không còn tồn tại…

 

2/ Quan điểm lạc quan, tin vào sự đột phá về chính trị hoặc sự sụp đổ của nền kinh tế.

 

Một số người có quan điểm rất rõ ràng về nguy cơ sụp đổ của nền kinh tế trong tương lai gần. Người ta cho rằng, sẽ có hai xu hướng chính sau: một, sự đột phá về chính trị, kéo theo sự đột phá về niềm tin, giúp chặn đứng cuộc khủng hoảng, từng bước phục hồi và phát triển nền kinh tế; hai, sự sụp đổ của nền kinh tế kéo theo sự sụp đổ của chế độ. Nói một cách dễ hiểu, hoặc có sự chủ động thay đổi chế độ, hoặc nếu không có sự chủ động thay đổi chế độ thì nền kinh tế cũng sụp đổ kéo theo sự sụp đổ và cuối cùng là thay đổi chế độ.

Lập luận chính của luồng ý kiến này tập trung vào những điểm sau.

 

- Trước hết và trên hết, đó là sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý của nền kinh tế thị trường, sự bóp méo và biến dạng toàn bộ cấu trúc và cơ chế của nền kinh tế thị trường dẫn tới sự biến dạng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam (xem bài “Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế Việt Nam”). Sự tùy tiện, lạm dụng và trục lợi trong các chính sách kinh tế của nhà nước càng làm nền kinh tế VN gặp phải các cơn co thắt, nghẹt thở dẫn tới sự đổ vỡ không tránh khỏi của tất cả các ngành nghề và toàn bộ nền kinh tế. Đây là nguyên nhân cơ bản nhất để khẳng định, nền kinh tế VN nếu không có sự thay đổi về bản chất sẽ không thể duy trì được sự tồn tại. Tất cả những đổ vỡ của nền kinh tế hiện nay: tỷ lệ nợ xấu cao của ngân hàng, nợ công tăng cao, sự đình đốn khủng khiếp của thị trường bất động sản chỉ là hệ quả và hậu quả tất yếu của nguyên nhân cơ bản nêu trên. Thật ra, về mặt lý thuyết, nền kinh tế Việt Nam không có lý do để tồn tại khi vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý kinh tế thị trường, cấu trúc và cơ chế nền kinh tế biến dạng hoàn toàn so với nền kinh tế bình thường. Nhưng nền kinh tế VN đã tồn tại, nhờ xuất phát điểm của mình, và những may mắn kỳ lạ. Chính vì vậy, nếu tiếp tục duy trì hiện trạng kinh tế như hiện nay, không có sự thay đổi về bản chất, thì sự sụp đổ của nền kinh tế là không thể tránh khỏi.

  

- Trong điều kiện nền kinh tế đổ vỡ, đình trệ và kém hiệu quả, nguồn chi của nhà nước vẫn vô cùng lớn. Nguồn chi của nhà nước bao gồm chi thường xuyên và chi cho các yêu cầu chính trị. Nguồn chi thường xuyên, như các phân tích trước đây (trong bài: “Tương lai nào cho phong trào Dân chủ Việt Nam” – 2008) và thực tế đang diễn ra, là một con số khủng khiếp. Nếu tính cả lương trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, các quỹ lương hưu (bảo hiểm xã hội) mà nhà nước thống nhất quản lý, thì số người được hưởng phụ cấp từ 10kg gạo trở lên đến lương Tổng bí thư, con số khoảng 30-40 triệu người. Sự độc quyền của đảng CS được duy trì cho tới ngày hôm nay có một phần không nhỏ do số người hưởng lợi quá nhiều từ thể chế này. Tuy nhiên, duy trì sự tồn tại của một hệ thống mấy chục triệu người trong tình trạng nền kinh tế đổ vỡ hiện nay quả là vấn đề rất nan giải (xem bài: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI VAY ĐỂ CHI TIÊU VAY ĐỂ TRẢ NỢ… http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/576467/da-den-muc-phai-vay-de-chi-tieu-vay-de-tra-no.html?). Nguồn chi cho yêu cầu chính trị cũng ngày càng tăng, không có điểm dừng. Đó là việc chi cho các ngày lễ lớn trong năm, chi xây dựng tượng đài, nhà truyền thống, nhà Lưu niệm của các cố lãnh đạo CS, tổ chức các sự kiện quốc tế nhằm mục đích tuyên truyền…nếu cộng gộp tất cả các địa phương sẽ là con số khổng lồ.

  

- Mức độ và quy mô tham nhũng hiện nay thực sự là khủng khiếp. Những người ở trong cơ chế, ít nhiều liên quan tới các dự án đều rùng mình về mức độ của tình trạng tham nhũng hiện nay. Có những công trình, chi phí thực chỉ hết hơn 60 triệu đồng, nhưng khi kết toán, số liệu lên tới trên 250 triệu đồng. Mức độ tham nhũng gấp 3 lần giá trị công trình, và đây là tình trạng chung của hầu hết các công trình. Lời khai của Dương Chí Dũng trong vụ Vinashine, về việc hối lộ 500 ngàn đô-la, 1 triệu đô-la cũng chứng minh mức độ tham nhũng khủng khiếp trong các giao dịch làm ăn tại VN. Với mức độ tham nhũng khủng khiếp như vậy, trên phạm vi toàn bộ các ngành, các cấp, chúng ta mới hiểu được tại sao lại có những tổng công ty như Vinashine (nợ 86.000 tỷ đồng). Đồng thời, chúng ta cũng hiểu rằng nền kinh tế hiện nay rỗng ruột hoàn toàn, tình trạng “để là áo, tháo là giẻ”

 

Với các lý do nêu trên, sự sụp đổ của nền kinh tế hầu như không thể tránh được. Nhưng hiếm khi nào những biến động của nền kinh tế lại xảy ra độc lập, tức là không liên quan tới các vấn đề xã hội, chính trị. Điều này có nghĩa là, sự sụp đổ của nền kinh tế VN có thể có các biến thể về xã hội hoặc chính trị. Nhưng gốc rễ sâu xa, nguyên nhân chính là sự cạn kiện nguồn lực của thể chế độc tài.

 

Khi tôi trao đổi với một số người về tương lai ảm đạm của nền kinh tế VN, rất nhiều người đã phản bác lại bằng câu hỏi “anh hãy chứng minh tại sao nó sụp đổ, sụp đổ bắt đầu từ đâu? xảy ra như thế nào?”. Tôi có hỏi ngược lại những người đó rằng, anh hãy lấy một ví dụ, từ trước tới nay về một Viện nghiên cứu kinh tế trên thế giới, hoặc trường đại học, hoặc các Think Talk (tạm hiểu: cơ quan nghiên cứu và dự báo chiến lược) nổi tiếng của nước Mỹ hoặc thế giới, xem đã có cơ quan nào dự báo được như vậy chưa?!?

Vấn đề quan trọng nhất, nền kinh tế VN đã vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý của kinh tế thị trường, đi ngược lại tất cả các quy luật, lý thuyết về phát triển và điều hành, quản lý nền kinh tế, và hệ quả nhãn tiền đã hiện ra: nợ xấu ngân hàng, nợ công cao, bất động sản đổ vỡ…và quan trọng nhất, lòng tin của người dân, của giới đầu tư đã đổ vỡ hoàn toàn. Vì vậy, nền kinh tế không thể tiếp tục sự tồn tại của nó, đừng nói tới sự phục hồi và phát triển. Chúng ta chỉ có thể dựa và những yếu tố đó để suy đoán, chứ làm sao có thể nói nó sụp đổ từ đâu, diễn ra như thế nào?!?

 

Trong hoàn cảnh hiện tại của nền kinh tế, vẫn có cách để chặn đứng đà suy thoái, từng bước khôi phục và phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, như bài viết “Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế VN”, không thể có một giải pháp đơn lẻ nào về kinh tế, thậm chí, một hệ thống giải pháp nào về kinh tế có thể chặn đứng xu thế rơi tự do của nền kinh tế hiện nay. Lý do rất giản dị, tất cả các giải pháp về kinh tế từ trước tới nay chưa bao giờ chạm được vào nguyên nhân cốt lõi đưa tới tình trạng của nền kinh tế hiện nay, để thay đổi bản chất của nền kinh tế (thực hiện đúng nguyên lý kinh tế thị trường, thay đổi cấu trúc, cơ chế hoạt động và cơ chế điều hành nền kinh tế). Để làm được điều này cần một quyết tâm chính trị vô cùng mạnh mẽ, táo bạo và mạo hiểm. Đó là: Một giải pháp tổng thể về kinh tế, đi kèm với một giải pháp chính trị, đồng ý cho xuất hiện một hoặc nhiều đảng chính trị khác cùng với lịch trình bầu cử dân chủ rõ ràng, có sự giám sát của quốc tế.

 

Xin được giải thích rõ, tại sao cần có sự đột phá về chính trị mới giải quyết được việc chặn đứng đà suy thoái của nền kinh tế. Một giải pháp tổng thể về kinh tế, nếu không có đủ quyết tâm về chính trị (hay chính xác hơn, sức ép buộc phải cải tổ, nếu không sẽ bị đào thải) đảng CS và nhà nước VN sẽ không đủ sức để thực hiện và đi tới cùng sự thay đổi. Tự bản thân đảng CS không thể tự tạo đủ sức ép cũng như vượt qua được sự bảo thủ và lợi ích nhóm hiện nay. Chính vì vậy, cần phải có sức ép từ bên ngoài, để cải tổ toàn diện và triệt để nền kinh tế. Sức ép bên ngoài đó, chính là khả năng tiếp tục duy trì sự lãnh đạo của đảng CS đối với đất nước trong điều kiện đa nguyên đa đảng, thậm chí, đó chính là sự tồn vong của đảng CS.

    

Trong thực tế, nguồn vốn trong dân còn rất lớn. Nhưng người dân không còn một chút niềm tin nào vào nền kinh tế, vào đảng CS và cách thức điều hành, quản lý nền kinh tế hiện nay. Họ đang giữ chặt nguồn vốn, không đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tất cả các giải pháp mà đảng CS và nhà nước hiện nay không thể thuyết phục họ quay trở lại đầu tư. Nhưng nếu có sự đột phá về chính trị, đảng CSVN tự đặt vào thế sống còn, cho phép các đảng phái khác xuất hiện và có lịch trình bầu cử dân chủ và quan sát viên quốc tế, họ sẽ tin đảng CSVN thực lòng muốn thay đổi, muốn cải tổ nền kinh tế tận gốc rễ và từ niềm tin này, họ sẽ quay trở lại đầu tư, nền kinh tế sẽ được giải cứu.

II/ NHỮNG LỰA CHỌN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Đứng trước sự khủng hoảng toàn diện của nền kinh tế VN hiện nay, ĐCS có những lựa chọn như thế nào nhằm phục hồi nền kinh tế, cũng như để duy trì độc quyền lãnh đạo đất nước. Chúng ta sẽ tìm hiểu những tính toán của đảng CSVN, bao gồm cả những dự phòng cho tình huống xấu nhất, và những khả năng nào có thể diễn ra trong thực tế.

 

1/ Lựa chọn tối ưu – không khả thi

 

Lựa chọn tối ưu của ĐCSVN hiện nay, đó là sự thống nhất trong toàn đảng về mối nguy của nền kinh tế VN sẽ dẫn tới sự tồn vong của chế độ, từ đó thống nhất giải pháp cải tổ triệt để nền kinh tế, bằng một sự đột phá về chính trị. Đây chính là giải pháp tối ưu của ĐCSVN, mặc dù phải trả giá đắt không còn sự độc quyền lãnh đạo đất nước. Nhưng đây lại là giải pháp, lựa chọn ít khả năng xảy ra nhất vì bản chất của chế độ không thể thực hiện nổi giải pháp này. Chúng ta xem xét vấn đề theo từng khía cạnh.

 

a/ Đánh giá đúng tình hình. ĐCS không thể đánh giá đúng tình hình của nền kinh tế đất nước vì hai lý do:

1- Không có số liệu trung thực, thông tin khách quan để đánh giá. Chúng ta đều biết, trong các chế độ cộng sản những số liệu, thông tin đưa ra hoàn toàn không chính xác, đó là những số liệu ma, chạy theo thành tích. Đây là bản chất của chế độ, từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, kéo dài sang thời kỳ hiện nay, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi không có số liệu trung thực, thông tin khách quan, không thể có được sự đánh giá chuẩn xác;


2- Những người nắm giữ vận mệnh đất nước , giữ những cương vị chủ chốt không đủ khả năng để đánh giá đúng tình hình.

 

b/ Tinh thần hy sinh cho công cuộc cải tổ, cải cách. Chúng ta đều biết rằng, bất kỳ một công cuộc cải cách, cải tổ nào cũng phải có sự hy sinh của những người thực hiện. Đó là sự hy sinh về lợi ích, công sức và thời gian. Nhưng đảng CSVN hiện nay, sự gắn kết của các đảng viên trong đảng không còn là lý tưởng (bởi sự sụp đổ của các nước CS, XHCN trên thế giới và thực tiễn hàng ngày, hàng giờ ở Việt Nam) mà chỉ là sự gắn kết về lợi ích, nếu không còn lợi ích, thì không còn sự gắn kết nào duy trì ĐCS. Chính vì vậy, nói tới cải tổ, cải cách là nói tới sự hy sinh, trước hết là hy sinh lợi ích, sau đó là sự hy sinh to lớn hơn (sự độc quyền lãnh đạo đất nước) đối với các đảng viên và toàn thể ĐCS sẽ là một sự viển vông, mơ tưởng hảo huyền.

 

c/ Thực trạng xung đột lợi ích trong đảng CS. Một lý do nữa, rất quan trọng để có thể khẳng định không thể có sự thống nhất trong ĐCS về một giải pháp tối ưu cho tình hình hiện nay. Đó là thực trạng tranh giành quyền lực, lợi ích giữa các nhóm và các cá nhân trong Đảng vô cùng khốc liệt hiện nay. Giả sử có một nhóm hoặc một cá nhân, nhận thức được nguy cơ của nền kinh tế dẫn tới sự sụp đổ của chế độ, người ta cũng không dám đưa vấn đề để thảo luận trong nội bộ cũng như công khai bởi đó sẽ là cái cớ (quy chụp) vô cùng lợi hại mà các đối thủ đang chờ sẵn.

 

Có một ví dụ rất giản dị, nhưng vô cùng gần gũi và hữu ích, để nói về giải pháp tối ưu của ĐCS trong tình hình hiện nay. Chúng ta đều biết, nạn mãi lộ (hối lộ lực lượng cảnh sát giao thông) trên phạm vi toàn quốc hiện nay diễn ra như thế nào. Thế nhưng, đánh giá chính thức của bộ Công An, cũng như của nhà nước hiện nay chỉ là một bộ phận không nhỏ trong lực lượng CSGT có hành vi nhận hối lộ, và về cơ bản, trong toàn lực lượng vẫn bảo đảm sự trong sạch. Cứ giả sử, bộ phận không nhỏ trong lực lượng CSGT nhận hối lộ là 15-20%, thì giải pháp để xử lý, giải quyết tình trạng mãi lộ sẽ rất đơn giản: rà soát các văn bản luật, quy định dưới luật; tăng cường giáo dục đạo đức, rèn luyện phẩm chất của cán bộ chiến sĩ; tăng cường lực lượng thanh tra, giám sát; nâng cao mức kỷ luật để răn đe…Nhưng trong thực tế, một đứa trẻ con ở Việt Nam hiện nay cũng biết, 100% các chiến sĩ CSGT nhận hối lộ (trừ những đồng chí nào bị hâm, hoặc thần kinh có vấn đề), thì giải pháp giải quyết vấn nạn mãi lộ sẽ hoàn toàn khác…100% nhận hối lộ thì vấn đề không phải là hiện tượng mà đó chính là bản chất, và bản chất đó là do cơ chế sinh ra. 

Việc giải quyết tận gốc vấn nạn mãi lộ là giải quyết, xóa bỏ cơ chế sinh ra nạn mãi lộ: đó là xóa bỏ việc hối lộ, đút lót trong nội bộ lực lượng CSGT để mua công việc (suất) trên các tuyến đường; xóa bỏ tình trạng nộp tiền hàng tháng, hàng ngày trên các cung đường, các vị trí trong nội bộ lực lượng CSGT…Đối với toàn bộ các ngành, các cấp và nền kinh tế hiện nay, giải quyết các vấn nạn cũng chính là giải quyết cơ chế gốc rễ của tất cả các vấn nạn, xóa bỏ cơ chế đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước…

 

2/ Lựa chọn thực tế - hy vọng mong manh

 

Về mặt công khai, hoặc thống nhất trong toàn đảng, không có sự đánh giá nào về khả năng sụp đổ của nền kinh tế, kéo theo sự sụp đổ, thay đổi của chế độ.  Nhưng trong thực tế, ở bộ phận tham mưu (trong phạm vi hẹp) không phải không có những đánh giá rất sát thực tế và có cả những lựa chọn, giải pháp để cứu vãn tình hình, cũng như chuẩn bị cho những khả năng xấu nhất xảy ra.

Tuy nhiên, các giải pháp của bộ phận tham mưu này cũng là các giải pháp tổng thể và theo từng bước căn cứ vào những diễn biến thực tế. Đầu tiên, đó là các giải pháp công khai, để phục hồi nền kinh tế trong bối cảnh duy trì độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN. Sau đó sẽ là các giải pháp, cho trường hợp nếu có xảy ra sự sụp đổ của chế độ, đảng CS sẽ biến thái, biến hình nhưng vẫn giữ được sự lãnh đạo đất nước. Sau cùng, đó sẽ là những giải pháp bảo đảm an toàn cho một nhóm nhỏ trong đó có bộ phận tham mưu này. Mức độ công khai, cũng như sự phổ biến sẽ giảm dần theo các đối tượng được bảo vệ trong các giải pháp đưa ra.

Mục tiêu mong đợi của các giải pháp này, trong trường hợp thay đổi chế độ, sẽ là mô hình của nước Nga thời Pu-tin hiện nay, hoặc của Hun-sen mà nhà nước VN có nhiều kinh nghiệm hỗ trợ. Lực lượng làm chỗ dựa cho sự biến thái của ĐCS, hoặc sự bảo vệ trong trường hợp có biến động, đó là lực lượng “dân chủ cuội” mà an ninh VN đã dày công cài cắm và khống chế.

Về cơ bản, lựa chọn thực tế này là các giải pháp thích nghi của ĐCS, hoặc một nhóm lãnh đạo kết hợp với bộ phận tham mưu để duy trì quyền lực và bảo đảm an toàn trong những tình huống xấu nhất xảy ra. Đó không phải là giải pháp lấy lợi ích của đất nước, của nhân dân làm mục tiêu tối thượng trong bối cảnh nếu thực hiện các mục đích này sẽ làm giảm nhẹ trách nhiệm trong quá khứ của ĐCS, hướng tới sự hòa giải, hòa hợp dân tộc, đưa dân tộc thực sự bước trên con đường tự do, dân chủ. Chính vì các giải pháp, lựa chọn không dựa trên các mục tiêu, mục đích trong sáng, đúng đắn, cộng thêm tình trạng phức tạp trong nội bộ ĐCS và tâm lý hoảng loạn nếu sự cố xảy ra, lựa chọn thực tế này của ĐCS rất mong manh vì những trở ngại và phức tạp sau.

- Không có sự tập trung, sự tập hợp sức mạnh cho một mục tiêu, mục đích. Như trên đã phân tích, các giải pháp lựa chọn của ĐCS sẽ dựa theo diễn biến tình hình và đi theo các mục tiêu thứ tự đã nêu trên. Nhưng trong những tình huống khó khăn, hiểm nghèo, chỉ tập trung vào một mục đích và dồn toàn lực may ra mới hy vọng thành công.

 

- Mức độ phổ biến cũng như sự tham gia của các lực lượng vào các lựa chọn rất hạn chế do các mục tiêu thực không thể tiết lộ (nếu tiết lộ sẽ dẫn tới hoảng loạn). Hiệu quả sẽ rất hạn chế bởi sự hạn chế về lực lượng và nguồn lực.

 

- Rất khó để hướng tới mô hình nước Nga của Pu-tin, bởi mô hình này hình thành tự nhiên, do bối cảnh nước Nga thời hậu Xô-Viết, chứ không phải kết quả của sự lựa chọn và tính toán từ trước. Mô hình Hun-sen của Cam-pu-chia cũng khó xảy ra, bởi Hun-sen có tính chính đáng và hào quang chiến thắng khi bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Đó là những yếu tố mà các cựu đảng viên ĐCS VN không có được, trừ trường hợp một cá nhân hoặc một nhóm phất cờ ngay trong nội bộ ĐCS thời điểm nguy cấp hiện nay.

 

- Lực lượng “dân chủ cuội” mà an ninh dày công cài cắm và khống chế không thể làm chỗ dựa trong những tình huống khẩn cấp được. Lý do là lực lượng thực hiện nhưng việc này chỉ vì trách nhiệm (ăn lương, nhận tiền nếu là nhân viên an ninh, đặc tình), hoặc do sợ hãi (bị khống chế phải làm việc cho an ninh  vì có tỳ vết hoặc sợ tù đày). Khi có biến động hoặc chế độ sụp đổ, những động lực, hoặc áp lực cho việc làm của họ không còn nữa, phần lớn trong số họ sẽ không tiếp tục công việc của mình. Rất khó để có sự trung thành của lực lượng “dân chủ cuội” khi sự gắn kết không phải do lý tưởng hoặc tình nghĩa.

   

- Một vấn đề rất quan trọng, khi sự cố xảy ra, sẽ có một tâm lý hoảng loạn cực lớn, có thể làm biến dạng và sụp đổ hoàn toàn các tính toán, lựa chọn sẵn có của bộ phận tham mưu cho những tình huống khẩn cấp (tình huống xấu nhất).

3/ Những khả năng hiện thực

 

Kết cục của chế độ CSVN được quyết định bởi sự suy kiệt và sụp đổ của nền kinh tế. Nhưng diễn biến của sự thay đổi lại phụ thuộc vào những biến động kinh tế - xã hội; kinh tế - chính trị và xã hội - chính trị, tức là những liên đới từ lĩnh vực kinh tế hoặc xã hội dẫn tới biến động chính trị, hoặc thậm chí đó là sự biến động về chính trị trong nội bộ ĐSCVN. Những xu hướng sau đây có thể xảy ra trong tương lai gần.

 

a/ Sự đột biến về kinh tế dẫn tới đột biến về xã hội, làm sụp đổ dây chuyền các lĩnh vực kinh tế và toàn bộ nền kinh tế. Một ví dụ điển hình nhất, có thể có sự sụp đổ của một ngân hàng, dẫn tới tâm lý hoảng loạn của người dân. Người dân đổ xô đi rút tiền ở tất cả các ngân hàng, làm sụp đổ toàn bộ hệ thống ngân hàng dẫn tới đổ vỡ hoàn toàn nền kinh tế. Chúng ta không thể biết được, có những đột biến nào có thể xảy ra, khi nền kinh tế đã suy kiệt và bệnh hoạn ở tất cả các ngành nghề, các lĩnh vực.

 

b/ Sự đột biến về xã hội, dẫn tới những động loạn xã hội và thay đổi chế độ. Mặc dù không một ai mong muốn kịch bản này xảy ra, nhưng đây cũng là một khả năng hiện thực. Xã hội Việt Nam hiện nay, như những thùng thuốc súng (không phải là một thùng) để cạnh nhau (vấn đề Dân Oan, vấn đề Tôn giáo, đình công của công nhân, vấn đề Phong trào Dân chủ, vấn đề chủ quyền thiêng liêng của tổ quốc…vv..). Hiện tại, chưa có hệ thống dây dẫn nào kết nối tất cả các thùng thuốc súng với nhau, nhưng một ứng xử thô bạo hoặc ngu xuẩn (hoặc cả hai) có thể cùng lúc làm nổ tung tất cả các thùng thuốc súng sẽ thiêu hủy chế độ trong chốc lát.

 

c/ Sự đột biến trong nội bộ ĐCSVN. Nếu cách đây 3-5 năm, khả năng này không (hoặc chưa) đặt ra thì đến ngày hôm nay, sự đột biến trong nội bộ của ĐCS là một khả năng hiện thực to lớn. Ở phần trên, những người khởi xưởng cho công cuộc cải tổ toàn diện của ĐCS, nếu chỉ bó hẹp sự ủng hộ trong nội bộ ĐCS sẽ rất khó và ít khả năng thành công. Nhưng nếu khéo léo kết hợp sự ủng hộ trong ĐCS và cả xã hội, khả năng thành công không phải là nhỏ, trong khi cái giá để trả sẽ không quá đắt.

Điều này có nghĩa là, cần có ngọn cờ (hay sự phất cờ) trong nội bộ ĐCS hướng tới mục tiêu tốt đẹp cho đất nước, cho dân tộc kết hợp với sự duy trì, tồn tại của ĐCS nhưng không còn trong vai trò độc quyền, độc đảng nữa. Sự bùng nổ của thông tin và khả năng truyền dẫn thông tin hiện nay cùng với xã hội dân sự (của phong trào dân chủ, các hội nhóm đoàn thể, thông tin lề trái…) sẽ là bà đỡ tuyệt vời cho những ý tưởng và hành động cao đẹp nảy mầm và bùng nổ trong nội bộ ĐCSVN. Xu hướng và trào lưu giải thể các chế độ độc tài trên thế giới cộng với áp lực quốc tế hiện nay cũng góp phần không nhỏ thúc đẩy khả năng “tự vỡ” trong nội bộ ĐCSVN.

*************

Không ai có thể biết được diễn biến những thay đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Nhưng những lựa chọn của ĐCS hiện nay sẽ có tác động rất lớn tới tương lai của đất nước. Nhưng những lựa chọn đó, trước hết và trên hết, sẽ tác động trực tiếp và nhanh nhất đến tương lai của những người lựa chọn và đảng Cộng sản Việt Nam bởi vì diễn biến của tình hình có thể sẽ xảy ra rất sớm và rất nhanh.

Lựa chọn sáng suốt nhất cần phải đặt trên nhận thức đúng đắn nhất: Sự thay đổi là không thể đảo ngược, chế độ Cộng sản Việt Nam đã đi hết chu kỳ tồn tại của nó. Tương lai của Việt Nam không có chỗ cho độc tài và những biến thể của độc tài./.

Nguyễn Vũ Bình

Thursday, August 14, 2014

Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt Nam

Kính Hòa, phóng viên RFA

2014-08-14

Nhật báo Người Việt sẽ xuất bản quyển sách tư liệu mang tựa đề Đèn Cù của nhà văn, nhà báo Trần Đĩnh vào cuối tháng 8 này

 

Nhật báo Người Việt sẽ xuất bản quyển sách tư liệu mang tựa đề Đèn Cù của nhà văn, nhà báo Trần Đĩnh vào cuối tháng 8 này

 

RFA files 

 

Điều mong mỏi nhất của người đọc khi cầm lên quyển sách tư liệu dày 600 trang của Trần Đĩnh có lẽ sẽ là những tiết lộ về những toan tính, những âm mưu chính trị bên trong đảng cộng sản Việt nam trong gần 70 năm qua từ khi đảng này bước lên thống lĩnh đời sống chính trị Việt nam. Mong mỏi đó ở người đọc không phải là điều gây ngạc nhiên vì chính nhân thân của tác giả, người làm việc nhiều năm tại cơ quan tuyên truyền của đảng là báo Nhân dân, và hơn thế nữa ông là người có cơ hội tiếp cận những nhân vật lớn của đảng như Hồ Chí Minh, Trường Chinh,…

 

600 trang sách dẫn độc giả đi từ những âm mưu nhỏ giành giật quyền lực ở cơ quan cho đến âm mưu mang tính toàn cầu, mà trong đó tác giả cũng phải mất nhiều thời gian để nhận ra. Và điều đáng buồn hơn hết chính là những âm mưu đó đã đưa đến cuộc chiến Việt nam tương tàn hơn hai mươi năm mà hệ lụy cho đến ngày nay dường như chưa chấm dứt.

Đó là chuyện ông vua không ngai Lê Đức Thọ, người chỉ giữ chức vụ khiêm tốn trưởng ban tổ chức trung ương, nhưng nắm trong tay quyền sinh quyền sát trên không những sinh mạng chính trị mà cả sinh mạng vật lý của hàng triệu đảng viên ĐCSVN và những người dân Việt nam

Những lời đồn đoán về nền chính trị bí ẩn của đảng cộng sản Việt nam được tác giả xác nhận một cách rõ ràng, hoặc bởi chính mắt mình trông thấy, hoặc bởi những người trong cuộc kể lại.

 

Giải Thánh

 

Đó là chuyện ông vua không ngai Lê Đức Thọ, người chỉ giữ chức vụ khiêm tốn trưởng ban tổ chức trung ương, nhưng nắm trong tay quyền sinh quyền sát trên không những sinh mạng chính trị mà cả sinh mạng vật lý của hàng triệu đảng viên đảng cộng sản Việt nam và những người dân Việt nam.

 

Ông Lê Đức Thọ

Lê Đức Thọ​,tên thật là: Phan Đình Khải ​sinh ngày 10/10/1911,mất 13/10/1990​

 

Đó là chuyện các anh hùng của cuộc chiến tranh cách mạng do đảng cộng sản lãnh đạo, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, thực chất đã không còn quyền lực gì từ những năm 60 của thế kỷ trước, mặc dù họ đã được đảng phong thánh.

 

Tác giả Trần Đĩnh đã giải thánh những anh hùng đó, giải thánh bằng những sự thật về cuộc sống bình thường của họ, mà tác giả mô tả một cách trần trụi nhất.

 

Hồ Chí Minh hóa ra không phải là một nhà cách mạng khắc kỷ bỏ hết mọi thứ riêng tư để hiến thân cho cách mạng và cho dân tộc. Qua lời kể của họa sĩ Phan Kế An, ông cũng có những đòi hỏi xác thịt bình thường nhất.

 

Hữu Thọ người đôi khi được báo chí chính thống hiện nay mô tả như một nhà báo đầy đạo dức và trách nhiệm nghề nghiệp, hóa ra là một kẻ bon chen, nhỏ nhen, làm tất cả để tiến thân trên những tầng nấc quyền lực của đảng.

 

Lê Duẩn, Tổng bí thư có quyền lực tuyệt đối của đảng cho đến chết, lại có những ý nghĩ rất ngộ nghĩnh về kinh tế quốc gia khi tuyên bố rằng cứ in tiền thoải mái vì nền kinh tế cộng sản của ông không hề có lạm phát. Cũng chính vị Tổng bí thư có vẻ bề ngoài điềm đạm ấy lại dùng vũ lực xốc cổ áo nhà triết học Trần Đức Thảo khi ông này nói rằng ông không hiểu những điều Tổng bí thư nói.

Qua việc giải thánh các nhân vật cách mạng, cuộc cách mạng cộng sản đã được giải thiêng, nó đơn giản trở thành một cuộc đấu tranh giành quyền lực của một nhóm người. Và cuộc đấu tranh quyền lực đó lại bị chi phối bởi một điều lạ lùng mang tên gọi Ý thức hệ.

 

Tác giả nói với chúng tôi về Ý thức hệ đó:

 

Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không?

Đó là chuyện các anh hùng của cuộc chiến tranh cách mạng do đảng cộng sản lãnh đạo, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, thực chất đã không còn quyền lực gì từ những năm 60 của thế kỷ trước, mặc dù họ đã được đảng phong thánh.

Âm mưu lớn đằng sau cuộc chiến tranh Việt nam

 

Chính Ý thức hệ này đã tạo nên một âm mưu lớn hơn mang tầm vóc toàn cầu, của những đồng chí phương Bắc của đảng cộng sản Việt nam, đó là nước Trung hoa cộng sản. Đây dường như là lần đầu tiên, một người trong lòng hệ thống là Trần Đĩnh xác định rõ rằng chính Trung Quốc đã đứng đằng sau lưng đảng cộng sản Việt Nam để khuấy động cuộc chiến tranh Việt Nam, mà tác giả không ngần ngại gọi nó là một cuộc nội chiến. Theo tác giả thì Trung quốc đã khuấy động chiến tranh bằng máu người Việt nam để đưa Trung Quốc ra đấu trường tranh giành quyền lợi của thế giới.

 

Phân tích của tác giả cho thấy rằng đảng cộng sản Việt Nam từ khi thành lập chưa bao giờ độc lập như họ thường tuyên bố. Trong cuộc chiến Việt nam huynh đệ tương tàn, đảng cộng sản Việt nam phụ thuộc vào Trung quốc. Chính vì lý do đó đã xảy ra vụ án Xét lại chống đảng mà những người được coi là thân Liên Xô như tác giả bị tống giam, thẩm tra bằng những bảng án miệng của Đảng. Rồi sau đó để làm vừa lòng Liên Xô, các nhân vật được xem là thân Trung quốc, đến phiên mình, lại bị tống giam không án.

 

Liên quan đến vụ án xét lại này, Trần Đĩnh cũng làm rõ rằng chính Lê Duẩn là người tôn vinh Mao Trạch Đông là lãnh tụ vô sản thế giới trong những năm 60, chứ không phải như dư luận từng xì xào trước đây rằng Trường Chinh là người thân Trung quốc vì ông chịu trách nhiệm những chết chóc đẫm máu của cuộc cải cách ruộng đất mà Trung quốc đứng đằng sau lưng.

 

Ông Võ Nguyên Giáp và lãnh tụ Hồ chí Minh năm 1945

Ông Võ Nguyên Giáp và lãnh tụ Hồ chí Minh năm 1945

 

Và đến phiên mình, khi Trường Chinh đã mất quyền lực thì ông cũng đánh đu theo dòng chính thống thân Trung quốc.

 

Trong những tư tưởng thân bên này thân bên nọ ấy đương nhiên quyền lợi dân tộc Việt nam bị quên đi, từ những năm cuối thập niên 50 những người cộng sản Việt nam đã tin rằng Trung quốc sẽ giữ giùm quần đảo Hoàng Sa!

 

Kinh hoàng cải cách ruộng đất

 

Và cuối cùng, trong những sự thật trần trụi mà tác giả mô tả, là sự thật chết chóc của cải cách ruộng đất dưới vỏ bọc mỹ miều đấu tranh giai cấp. Nếu trong Bên Thắng Cuộc của nhà báo Huy Đức, những thảm cảnh trên đường vượt biển tìm tự do của người Việt sau năm 1975 được mô tả rõ ràng như chì đen trên giấy trắng không kèm theo lời bình luận, thì thảm sát cải cách ruộng đất lại được Trần Đĩnh cất lên đầy thê lương như những câu hờ tang tóc trên đồng bằng Bắc bộ.

Trong những tư tưởng thân bên này thân bên nọ ấy đương nhiên quyền lợi dân tộc Việt nam bị quên đi, từ những năm cuối thập niên 50 những người cộng sản Việt nam đã tin rằng Trung quốc sẽ giữ giùm quần đảo Hoàng Sa!

Và ai là người chịu trách nhiệm về cuộc giết chóc hoang tàn mà chính đảng cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng đó là sai lầm? Cái nhìn cận cảnh của tác giả về Hồ Chí Minh, lãnh tụ lớn nhất của đảng lúc ấy, sau những cái chết của những địa chủ có công với cách mạng như bà Nguyễn Thị Năm, Cụ Cử Cáp,… làm cho người đọc nghĩ rằng những giọt nước mắt của Hồ Chí Minh mà nhiều người thấy qua hình ảnh từ trước đến nay không hoàn toàn là những giọt nước mắt.

 

Một đặc trưng cơ bản của chế độ cộng sản là tính toàn trị của nó. Nó muốn kiểm soát hết mọi thứ, kể cả suy nghĩ của người dân. Đèn Cù của Trần Đĩnh miêu tả những náo loạn tinh thần mà chủ nghĩa cộng sản đem lại cho một xã hội bình thường vì sự mong muốn toàn trị của nó.

 

Trong sự mong muốn toàn trị ấy, chủ nghĩa cộng sản bỏ qua cá nhân con người. Trần Đĩnh viết rằng định nghĩa về con người dưới chế độ cộng sản là một tổng hòa các mối quan hệ xã hội, và vì thế chính bản thân con người là không quan trọng nữa.

 

Trong xã hội mà đảng lãnh đạo nổi lên như một tổ chức siêu quyền lực. Mọi quan hệ giữa người và người với nhau như tình bạn cũng không quan trọng cái mà Trần Đĩnh gọi là tình đảng, vì tình đảng ấy cho những người cảm tình của nó đủ thứ, bảo vệ và che chắn cho những người có tình đảng ấy.

Theo tác giả, chủ nghĩa cộng sản đã lợi dụng hai góc tối tăm nhất của con người là nỗi sợ và lòng tham để thống trị họ. Ông lấy bản thân làm ví dụ. Ông biết rằng ông viết theo chỉ thị của ai đó, của đảng là một việc không nên làm, và khi đã lờ mờ nhận thấy thì cũng khó lòng bứt khỏi nó.

 

Và tôi bắt đầu lờ mờ nhận thấy ngoài bồi bút, tôi mang hai bộ mặt lệch nhau: om xòm ở tư cách kẻ lên án và câm nín với vai tội phạm bị đàn áp man rợ của chính bản thân.

 

Mà không phải chỉ có ông, một nhà báo không có vai vế trong đảng. Một vị đại công thần là Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng sợ hãi những cố vấn Trung quốc, vị Đại tướng phải nhắn nhủ các người thân tín của mình là phải dè chừng sự sưu tra lý lịch của những viên cố vấn ấy. Guồng máy cộng sản nội địa và cộng sản quốc tế luôn đè nặng một nỗi sợ lên những thành viên của họ.

 

Một loại xã hội mới được mà đảng cộng sản xây dựng nên được Trần Đĩnh mô tả: Đảng tạo ra hẳn một xã hội mới toanh cho loài người bất cần loài người có bằng lòng hay không. Đọc đoạn này độc giả dễ dàng liên tưởng đến tác phẩm gây chấn động ý thức hệ cộng sản vào những năm 50 của thế kỷ trước của Milovan Djilas mang tên Giai cấp mới, trong đó nhân vật số hai của đảng cộng sản Nam tư mô tả một giai cấp mới là gia cấp cộng sản lên ngôi nắm mọi quyền lực và quyền lợi. Nay Trần Đĩnh viết rằng trong sự bất cần loài người có đồng ý hay không ấy thì luật pháp chẳng có ý nghĩa gì cả.

Những nhân vật có thật trong Đèn Cù, từ những văn nghệ sĩ, trí giả như Đặng Thai Mai, Chế Lan Viên, đến những nhân vật chính trị đều hành xử trong một tình đảng và không pháp luật ấy. Mà ngay chính bản thân tác giả, ông cũng cho rằng có những lúc ông đã hành xử rất “cộng sản,” đó là khi ông đến gặp ông Trường Chinh, và được ông này khoe đứa cháu còn ẵm ngữa:

 

Bây giờ, ở trang giấy này, tôi thành thật xin lỗi người ông và người cháu đích tôn. Tôi đã phản ứng sặc mùi cộng sản: oán hận dai bền. Hôm ấy Trường Chinh có tình người hơn tôi. Nay tôi thật lòng xấu hổ. Nhất là khi đọc Cioran: “Hận thù có thể khiến con người dũng cảm nhưng chỉ bao dung mới làm cho con người có đạo đức.”

 

Mang những hận thù, oán hận ấy để đi giải phóng loài người như mục tiêu cao cả mà những nhà tư tưởng cộng sản đầu tiên đề ra thì quả là khó, Trần Đĩnh viết tiếp

 

Giải phóng con người là một thứ ngoa ngôn sặc mùi tâm thần. Giải phóng cho bản thân bình đẳng với dân còn làm không nổi, nói gì giải phóng loài người?

 

Và những mục đích cao đẹp đó chỉ đem vào cho chủ nghĩa cộng sản một đặc tính mà Trần Đĩnh dùng một danh từ của đầu thế kỷ 21 để miêu tả, đó là một loại thuốc lắc, ý thức hệ gây lắc, như những cơn điên lọan ở vũ trường.

Giải phóng con người là một thứ ngoa ngôn sặc mùi tâm thần. Giải phóng cho bản thân bình đẳng với dân còn làm không nổi, nói gì giải phóng loài người?

Trong cơn lắc say sưa đó, chế độ cộng sản trở nên, như Trần Đĩnh mô tả, là một chế độ hỗn hào, nó cho mình là đứng lên hết thảy mọi thứ. Điều này giải thích cho sự ngạc nhiên cách đây gần 40 năm khi những người dân miền Nam lần đầu tiên tiếp xúc với ngôn ngữ tuyên truyền từ những người cộng sản, khi họ gọi tất cả những nhân vật, những quốc gia không thuộc về phe của họ bằng những từ miệt thị, từ những viên tướng Mỹ, Pháp cho đến những nhà lãnh đạo chế độ Việt nam cộng hòa vừa sụp đổ.

 

Giữ mình và thoát cộng

 

Trong khung cảnh mờ mịch đầy kích động do đảng tạo ra ấy, vẫn còn có những con người bám víu được những mảnh lý lẽ, lương tri cuối cùng của mình.

 

Nguyễn Trung Thành, nhân vật đã giúp Lê Đức Thọ dựng nên vụ án xét lại chống đảng đã cố gắng đòi hỏi minh oan cho những nạn nhân. Vù là sự minh oan đó vẫn còn nằm dưới…công lý của Đảng.

Bản thân Trần Đĩnh cũng giải thích ông đã phải giữ mình như thế nào

 

Tôi đã giữ được y tứ với bản thân trước hết. May sao cái chất thú hoang nó đã giúp tôi giữ lấy nhân cách cho mình, cái nhân cách hết sức mong manh trong vòng vây của chủ nghĩa tập thể, cái chủ nghĩa nó không biết đến nhân cách. Cái gì dính đến nhân - con người - là nó ghét lắm.

 

Có lúc ông vẫn hy vọng là cứu giúp đảng cộng sản, mà ông đã tham gia vào thuở thanh niên hăng hái tưởng rằng đó là một lý tưởng sống. Cho đến sau khi cuộc chiến mà ông không ngần ngại gọi là cuộc nội chiến kết thúc. Khi bị khai trừ ra khỏi đảng cộng sản, ông trích lời bố ông rằng đó là một sự kiện vĩ đại của cuộc đời ông.

 

Cuốn sách được Trần Đĩnh hoàn thành vào năm 2014 của thế kỷ 21. Nhìn lại tư tưởng ủng hộ Liên Xô của ông và các đồng chí vào những năm chiến tranh lạnh, đối đầu với chủ nghĩa Mao, ông viết:

Có lẽ trong những người phản đối cộng sản, có một số rất ghét xét lại chúng tôi vì là “tay sai Liên Xô.” Họ nghe Ðảng nên không hiểu là do kiên trì phản đối nội chiến, chúng tôi đã bị khép tội chống Ðảng, phản động trong bóng tối bí mật bao la của Ðảng.

 

Lúc đó với chúng tôi, đào đâu ra Human Right Watch, ra Internet, ra Hạ viện Mỹ thông qua nghị quyết đòi Việt Nam tôn trọng nhân quyền, đào đâu ra các thứ blogs ngày ngày đòi thả chúng tôi v. v.?.

 

Điều này không khác những người cộng sản Đông Âu trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ cũng từng hy vọng rằng họ có thể làm cho chủ nghĩa cộng sản trở nên có một khuôn mặt mang tính người hơn.

Và trước khi hoàn tất quyển sách này, Trần Đĩnh vẫn còn đề đạt những gì ông cho là nên làm với chính quyền hiện tại, vẫn còn mang tên cộng sản, nhưng đã tiến hành một cuộc hôn nhân nhiều gai góc với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Friday, August 8, 2014

TRỜI ƠI... THIÊN ĐƯỜNG CỘNG SẢN! THƯỢNG ĐẾ HỠI CÓ THẤU!!!

Mẹ tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con đi học
Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo hết. Mẹ chết để giảm gánh nặng cho cha con, để phù hộ cho cha con các con được trúng số độc đắc, để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con...

Người Đưa Tin - Sau một tháng toan tính kỹ lưỡng, chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 38 tuổi, ngụ ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau quyết định... chết. Chị chọn quyên sinh là giải pháp cuối cùng với hy vọng kiếm được ít tiền phúng điếu và gia đình được cấp sổ hộ nghèo. Đau đớn đến mức trong lá thư để lại, chị còn nhắn chồng đi xin hòm về liệm, dành tiền đóng học cho con.

Nghẹn uất xót thương

Chiều 24/4/2013, xứ An Xuyên bàng hoàng, thảng thốt bởi cái tin chị Nhân treo cổ chết.

Trước khi thắt cổ chết một tháng, chị đã nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm về kế hoạch chết của mình. Chị khẳng định với chồng là chỉ còn một con đường duy nhất duy trì việc học cho các con. Đó là chị phải chết đi để mọi người đến phúng viếng mới có tiền trang trải cho các con học, giảm gánh nặng cho chồng, lấy linh hồn phù hộ cho chồng con… trúng số độc đắc.

Người chồng đau khổ nhưng bất lực trước ý chí sắt son của người vợ.

Trong suốt hai ngày đám tang của chị Nhân, người ta không nghe anh Bảo trách vợ một tiếng nào. Hơn ai hết, anh là người thấu hiểu tấm lòng của vợ. Anh nói trong nước mắt: “Vợ tôi đã cố gắng đến hơi sức cuối cùng”.

Hơn 20 năm làm vợ chồng với nhau, anh Bảo chưa bao giờ thấy vợ mình đáng trách. Ngược lại, anh luôn cảm phục tấm lòng và nghị lực của vợ.

Chị làm lụng đến tối tăm mặt mũi, không từ công việc gì miễn kiếm được tiền. Cả những công việc nặng nhọc tưởng chỉ đàn ông mới đảm đương nổi, chị cũng không nề hà. Đến khi bị bệnh tật hành hạ, chị vẫn cố gắng đi làm, không dám chữa trị vì tiền kiếm được còn phải để đóng học cho con.

Người phụ nữ nghị lực "đã gõ mọi cánh cửa"

Chị còn được xóm làng ngợi khen về tính đảm đang tháo vát hơn người. Chị chưa bao giờ bỏ qua một cơ hội kiếm tiền chính đáng. Nghe nói Nhà nước có chính sách cho sinh viên, học sinh vay tiền đi học, chị đích thân đi tìm hiểu và làm thủ tục xin vay. Người ta trả lời phải là hộ nghèo, hoặc hộ cận nghèo mới được cho vay. Chị về hỏi chính quyền địa phương xin được xét cấp sổ hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Bà Nguyễn Thị Nhu, Chi hội trưởng Cựu chiến binh ấp 5, xã An Xuyên kể: “Ngày 18/11/2012, khi họp dân ấp nhân ngày đại đoàn kết và xét chọn hộ nghèo, cận nghèo, Mỹ Nhân có đến dự. Tôi nhớ rất rõ lời nói của nó hôm đó. Nó nói “hoàn cảnh tôi quá khó khăn, xin được cấp sổ hộ nghèo để vay tiền cho các con ăn học”. Khi đó, Trưởng ấp ghi nhận nhưng chỉ hứa là sẽ xem xét sau, vì đã qua đợt xét hộ nghèo”.

Chị cũng đã tìm hiểu ra và làm thủ tục cho con trai nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với sinh viên học ngành hóa chất độc hại. Chị cũng đã tranh thủ góp hụi, vay tiền từ Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, thậm chí vay "nóng" bên ngoài.

Anh Từ Văn Nguyễn, công an ấp 5, kể thêm: “Cách đây một tháng, chị Nhân đi kêu một bà để bán nhà và đất đang ở. Bà này trả lời là để bàn lại với người thân, chứ đất đai đâu phải nói mua là mua liền. Chị Nhân năn nỉ bán trả chậm, 2 triệu một tháng cũng được để có tiền đóng học phí cho các con. Bà này không chịu, chị Nhân nói nếu không chịu thì vài bữa nữa đi đám ma của tôi”.

Trước khi thắt cổ chết 3 ngày, chị Nhân hay tin có ông Trần Đại Đoàn, một người bà con mới về làm bí thư xã An Xuyên. Chị lập tức lên xã gặp ông Đoàn để xin được xét cấp sổ hộ nghèo. Ông Đoàn ghi nhận và hứa sẽ xem xét để cấp sổ hộ nghèo cho chị khi đến đợt xét tới đây. Đến lúc chị qua đời, anh Bảo vẫn chưa hay biết việc chị đã lên xã xin anh Đoàn cái sổ hộ nghèo.

Tâm thư tuyệt mệnh

Bên cạnh xác chết của chị, người ta đã tìm thấy những bức tâm thư tuyệt mệnh.

“Anh Bình! Hoàn cảnh em quá khổ. Em chết, anh chôn em cặp Hà (em trai chị - PV), trên đất của cha mẹ. Em chết, anh thỉnh bàn thờ mẹ về nhà anh thờ. Mong anh đừng làm khó em, để em yên thân nằm cạnh Hà. Gia đình mình sống quá khổ, từ đời của cha mẹ đến đời con, không có ý nghĩa gì hết”.

Phần gửi cho chồng, chị Nhân viết: “Anh Bảo! Tiền em bỏ trong túi quần tây, trong tủ áo. Quần tây màu đỏ”.

Bức thư thứ hai dài đến bốn trang giấy học trò, chữ viết nguệch ngoạc, không chấm phết, ý tứ đứt quãng, lủng củng. Nhưng khi đọc lên, ai cũng có cảm giác là chị Nhân đang nói với mình. Bởi những điều đó chị đã nói rồi, nói với chồng, với con, với nhiều người hàng xóm, và nói từ cả tháng qua.

Chúng tôi tạm rút nội dung bức thư thứ hai của chị theo ý chính như sau:

“Tạm biệt chồng con!

Anh! Trong hoàn cảnh gia đình mình quá khổ, em không sống nổi với anh và các con. Từ một tháng qua, em bệnh, nằm xuống nhưng không ngủ được. Em nhớ đến nợ nần, đến tiền học phí của các con, đến sự khổ cực cả đời của anh. Em đã cố gắng lắm rồi, em chạy tiền bằng mọi cách để trị bệnh, để lo đóng học phí cho các con, nhưng có ai cho mình mượn, mình vay đâu.

Em khổ lắm. Em không còn lối thoát. Em biết chết trong lúc này, bỏ lại anh và 3 đứa con ngoan, hiền, học giỏi của chúng ta là em không đúng. Anh Bảo! em thương anh nhiều lắm. Anh sống với em cả đời cực khổ, chưa có bao giờ anh được sung sướng.

Các con, Bằng, Tâm, Ngân. Các con đừng trách mẹ, mẹ khổ nhiều lắm. Mẹ chạy tiền cho các con ăn học, bây giờ nợ nhiều lắm. Tiền hụi chết mỗi tháng phải đóng cho dì Ánh 1 triệu đồng. Mẹ đã đi van xin được cấp sổ hộ nghèo để mẹ vay tiền đóng học phí cho các con. Nhưng không ai cho gia đình mình nghèo hết. Mẹ chết để giảm gánh nặng cho cha con, để phù hộ cho cha con các con được trúng số độc đắc, để chính quyền thấy nhà mình thực sự khổ rồi cấp sổ hộ nghèo, vay tiền đóng học phí cho các con.

Xin các cấp chính quyền ấp 5 soi xét cho hoàn cảnh quá khổ, không lối thoát của chúng tôi mà xét cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi được sống những ngày tháng còn lại trên đời.

Anh Bảo! Anh ra Hội chữ thập đỏ xin hòm liệm em, đừng mua tốn kém lắm, dành tiền lo cho các con mình ăn học nghe anh.

Anh. Em thương anh nhiều lắm! Các con hãy gắng vươn lên, học tập đổi đời, đừng để cha con phải khổ thêm. Vì mẹ con mình mà cha các con phải khổ cả đời rồi...

Mỹ Nhân tạm biệt!".

Đám tang của chị được bà con An Xuyên phúng viếng trên 40 triệu đồng, một số tiền khá lớn so với những đám tang khác tại địa phương.'

nguoiduatin.vn/that-long-me-tu-tu-de-lay-tien-phung-vieng-cho-con-hoc-a143035.html
http://danlambaovn.blogspot.ca/2014/08/me-tu-tu-e-lay-tien-phung-vieng-cho-con.html

Sunday, August 3, 2014

Video về Trại Tập Trung


 .Video về Trại Tập Trung.

 
 Vietnam Film Club ki­nh chuyển đến Quý Vị

Video về Trại Ta­p Trung để nhờ tiếp tục phổ biến rộng rãi


Vietnam Film Club mong muốn nha­n được sự đóng góp của Qúy Vị dưới mọi hình thức để vượt qua được những khó khăn hiện nay hầu tiếp tục thực hiện các phim
tai liệu lịch su­, để cùng với Quý Vị, đóng góp lợi i­ch cho Cộng Đồng Người Việt trong va  ngoai nước.

Ki­nh
Chu Lynh, Editor
Vietnam Film Club

Saturday, August 2, 2014

UNESCO vinh danh bằng chứng Hoàng Sa của VN
***
Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam đã chính thức được UNESCO trao bằng công nhận là Di sản Tư liệu thuộc Chương trình Kí ức thế giới Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương 2014 (MOWCAP) sáng nay 30/7 tại Hà Nội.
 
Châu bản Triều Nguyễn
Bà Katherine Muller Marin trao bằng công nhận di sản tư liệu Châu bản Triều Nguyễn cho đại diện của Việt Nam

UNESCO đánh giá cao giá trị nội dung, tính xác thực, độc đáo, duy nhất và tầm ảnh hưởng của Châu bản triều Nguyễn đối với khu vực và quốc tế.
 
Đây là khối tài liệu hành chính duy nhất còn lưu giữ được của một vương triều phong kiến Việt Nam, lưu giữ bút tích của các vua triều Nguyễn phê duyệt các vấn đề của đất nước.
 
Châu bản triều Nguyễn chứa đựng nhiều thông tin phong phú, phản ánh mọi lĩnh vực trong xã hội dưới triều Nguyễn như chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, giáo dục… Đặc biệt, theo nội dung các châu bản, các cơ quan của triều đình nhà Nguyễn đã tiến hành xác lập, thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; cử nhiều đoàn khảo sát liên tục ra 2 quần đảo này để khảo sát, cắm mốc, đo vẽ bản đồ. Châu bản ngày 21/6 năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) cho biết: Kết quả của đoàn khảo sát Hoàng Sa năm 1838 đã khảo sát được 25 đảo, trong đó có 13 đảo được khảo sát lần đầu…
 
Trao đổi với VietNamNet, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê cho biết, có 19 châu bản nói về chủ quyền biển đảo của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong những châu bản Triều Nguyễn khẳng định rõ cương giới trên biển của Việt Nam.
 
Triều Nguyễn cũng nâng tầm quản lý Hoàng Sa và Trường Sa ở vị trí rất cao. Triều đình trực tiếp quản lý Hoàng Sa, Trường Sa dưới sự chỉ đạo và phê duyệt của Vua. Từ việc điều thuyền như thế nào, đi về kết quả ra sao đều phải được báo cáo lên Vua. 
 
Châu bản Triều Nguyễn
Châu bản Triều Nguyễn là bằng chứng lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền biển đảo Việt Nam
 
"Là một nhà sử học, bên cạnh việc vui mừng khi một di sản được thế giới vinh danh còn có cả sự vui mừng khi một lần nữa, chủ quyền biển đảo đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam được khẳng định chắc chắn.  Khi mà Châu bản Triều Nguyễn được công nhận là di sản thế giới thì điều đó có nghĩa là giá trị của tư liệu này không nằm trong phạm vi một quốc gia mà nó đã tỏa sáng ra toàn thế giới", Giáo sư Phan Huy Lê nói.
 
Bà Katherine Muller Marin, Trưởng đại diện Văn phòng UNESCO Hà Nội tỏ ý khâm phục và biết ơn những người đã tham gia trong suốt quá trình tìm tòi để đưa được Châu bản Triều Nguyễn tới công chúng và để nó được đón nhận danh hiệu như ngày hôm nay. "Đó là sức lao động bền bỉ của cả một tập thể để khôi phục di sản văn hóa và chính trị của Việt Nam", bà Katherine Muller Marin phát biểu. 
 
Như vậy, Châu bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thứ 4 của Việt Nam được UNESCO công nhận sau Mộc bản triều Nguyễn (2007), 82 Bia đá Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (2010) và Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (2012). Việc vinh danh Châu bản triều Nguyễn góp phần làm phong phú thêm kho di sản tư liệu kí ức của Việt Nam và của thế giới.