Showing posts with label HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM. Show all posts
Showing posts with label HỘI ÁI HỮU TÙ NHÂN CHÍNH TRỊ VÀ TÔN GIÁO VIỆT NAM. Show all posts

Thursday, December 8, 2016

HAI MƯƠI SÁU NĂM LƯU ĐÀY

CHƯƠNG I

THỜI THƠ ẤU
T
ôi Tỳ kheo Thích Thiện Minh, thế danh Huỳnh Văn Ba sinh ngày 29 tháng 8 năm1955, tại xã Vĩnh Lợi, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. 

Thân phụ là Ông Huỳnh Văn Cầm, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Khéo. Tôi có 7 chị em, chị gái lớn thứ hai, em gái kế tôi thứ tư và 4 em trai. Tôi xuất thân trong gia đình đạo đức, cha tôi có tấm lòng nhân hậu, tánh tình rộng rãi hay giúp người, mẹ tôi một người đàn bà hiền thục, mẫu mực vất vả quanh năm vì chồng vì con cho đến cuối đời. Song thân tôi vốn là tín hữu Đạo Cao đài, trực thuộc Tòa thánh Tây Ninh, phụ mẫu tôi thường đi lễ bái ở Thánh thất hoặc ở các đền, chùa trong những ngày "Tam nguơn Tứ quý". 

Từ bé tôi đã được sự hấp thụ giáo dục và uốn nắn của gia đình, đặc biệt là sự nghiêm huấn của phụ thân. Cha mẹ tôi có một thời phải rời nơi chánh quán Bạc Liêu để tha hương lưu lạc, lập nghiệp nơi xứ lạ quê người, tận đến tỉnh Trà Vinh, còn gọi là tỉnh Vĩnh Bình, hai chữ "Vĩnh Bình" cũng là tên của ngôi chùa “Vĩnh Bình” tôi làm trụ trì cách đây 26 năm về trước tại tỉnh Bạc Liêu. Tên ngôi chùa là để ghi nhớ lại những dấu ấn mang nhiều kỷ niệm của những ngày thơ ấu, khi tôi bắt đầu tập tễnh đi chùa lạy Phật, đọc kinh. Tôi xin lược thuật lại câu chuyện sau đây...

Năm lên sáu, bảy tuổi, tôi còn nhớ ở nơi đây, ngang nhà tôi trong làng thuộc ấp Long Bình, xã Phú Vinh, huyện Châu Thành tỉnh Vĩnh Bình có một người chị hàng xóm tên là Điệp khoảng trên hai mươi tuổi. Hằng đêm chị thường dắt tôi cùng một vài bạn trẻ trong xóm, trạc tuổi tôi đi ngang những hàng cây "Cồng" loại cây cổ thụ lâu đời, cành lá xum xuê, dưới gốc cây um tùm cỏ dại, trông rất rợn người nhất là về ban đêm rồi còn phải qua dốc cầu Long Bình, để đến chùa Long Khánh đọc kinh lạy Phật. Chính tại nơi đây tôi được xem bộ phim "Lược sử Đức Phật Thích Ca, từ Sơ sinh cho đến Thành Đạo", được Chùa Long Khánh tổ chức trình chiếu nhân những mùa Phật Đản hằng năm. Tôi thường đi theo cộ xe hoa cùng hàng đoàn người đi dạo khắp các ngã đường trong tỉnh lỵ. 

Từ bé, tôi đã cảm thấy thích thú say sưa khi nghe tiếng tụng kinh rất thánh thoát với giọng đọc trầm bổng của quý Cô, quý Thầy, tiếng mõ với những âm thanh đều đặn và tiếng chuông chùa ngân nga êm ái, làm lắng đọng cả tâm hồn. Khói hương nghi ngút xông lên bay lượn trong một khoảng không gian thu hẹp phảng phất thoang thoảng mùi trầm, dưới mái chùa trang nghiêm thanh tịnh, bên cạnh những pho tượng từ bi của chư Phật và những hoa văn tinh xảo của 4 chữ "Đại Hùng Bửu Điện" hòa lẫn với những nét kiến trúc độc đáo của ngôi chùa cổ hơn trăm tuổi, càng làm tăng thêm vẻ cổ kính tôn nghiêm.

Bá tánh thập phương đến viếng chùa khi nhìn thấy cảnh trí, cảnh sắc, cảnh quan của ngôi tam bảo thì tự nhiên cảm thấy lòng mình như thoát tục, sẽ giải trừ bớt những đam trược của cuộc đời và quên đi phiền não, muốn huân tập đạo lý, giữ gìn phẩm hạnh, quyết tâm tu học bằng trí tụê tự giác, tự tỉnh trong niềm vui đạo vị để mong sớm thoát khỏi cảnh bể khổ trầm luân. Đặc biệt lúc còn bé tôi nhìn chiếc áo nâu sòng sao đẹp quá và tự nhiên muốn mặc quá! Tôi có ý nghĩ trong lòng và ước mơ thầm kín, ước gì sau nầy mình sẽ được đi tu. Nhưng có điều ngài ngại là mỗi khi đến chùa trông thấy ông thầy trụ trì, thì tôi né tránh không dám đến gần, không dám nhìn thẳng mặt Thầy, lúc ấy tôi sợ lắm! Vì thầy trụ trì có hàm râu quai nón, đôi mắt sáng quắc như hai vì sao, trông nét mặt, cử chỉ và cách nói năng rất từ tốn, điềm đạm và nghiêm trang, oai nghi tế hạnh, ít đùa cười!. Lúc đó tuổi thầy ước chừng khoảng 40-50. Tôi nhớ mang máng dường như Pháp danh là Thích Hoằng Thông? Nếu giờ nầy Ngài còn sinh tiền ắt là vị Đại lão Hòa Thượng khoảng chừng 80-90 tuổi... 

Thế rồi, thời gian vài năm sau, song thân tôi lại rời tỉnh Vĩnh Bình về quê Bạc Liêu. Tôi cũng từ giã con đường mòn cũ, của những ngày thơ ấu cắp sách đến trường. Tôi đến chào thầy, chia tay bạn cùng lớp và từ biệt người chị hàng xóm kính yêu và cũng không quên chia tay vài người bạn trẻ thiết thân thường rủ nhau đi chùa lễ Phật hôm nào! Tôi cảm thấy một nỗi buồn rười rượi, rộn rạo, xao xuyến trong lòng, khi phải rời xa nơi có nhiều kỷ niệm, lưu luyến mến yêu. Tôi đến nhà chào chị lần cuối trước khi xuống ghe, cùng cha mẹ, theo dòng sông Cửu long, xuôi thuyền về đất Bạc! Chị ôm tôi vào lòng, tôi bật khóc… 

Nét mặt chị buồn buồn và mí mắt như long lanh những giọt lệ cảm mến yêu thương. Chị khuyên tôi “Về Bạc Liêu em hãy cố gắng học hành, sống phải có hiếu với mẹ cha, thương yêu anh, chị, em trong gia đình, lễ phép với bà con lối xóm và nhất là đừng quên đi chùa lạy Phật, đọc kinh, nếu có chùa gần nhà là tiện nhất. Em nên đến thường xuyên”. Chị còn nói "Khi nào có dịp về Vĩnh Bình, em nhớ ghé nhà chị, hoặc gửi thư thăm chị nhé! Riêng chị, trong tương lai nếu đủ cơ duyên có lẽ chị sẽ xuất gia. Em nhớ niệm Phật Di Đà mỗi đêm trước khi đi ngủ hoặc niệm Quán Thế Âm Bồ Tát để Phật phò hộ cho mình”

Từ đó đến nay tôi chưa có lần về lại chốn xưa, không biết giờ nầy chị đã xuất gia hay còn ở dưới mái gia đình, tôi tin tưởng rằng, chị luôn giữ vững niềm tín, Hạnh, Nguyện, bồ đề tâm kiên cố, cho dù chị chưa xuất gia để trở thành bậc Giáo thụ Thiện tri thức đi nữa. Chắc chắn hiện nay chị vẫn là người Phật tử thuần thành, một trong những người Ngoại hộ Thiện tri thức, một Đàn việt thiện tâm, góp phần hưng long cho Phật Đạo để xiển dương Chính pháp. Câu chuyện thật trên đây, là những kỷ niệm nhỏ của tuổi thơ. Nhưng mãi ghi nhớ trong tôi suốt cả cuộc đời tu hành. Tôi muốn nói lên tiếng nói cảm ơn chị... 

Nhờ chị mà em nay đã và đang là kẻ xuất gia, đang dấn thân trên con đường giải thoát. Em đang mặc chiếc áo nâu sồng, chiếc áo của Như Lai, ở trong toà nhà Như Lai, đang “Tác Như Lai Sứ, Hành Như Lai Sự”. Thưa chị, Em đang là Sứ giả của Như Lai, đang đi trên con đường tìm chân lý bằng một tấm lòng Chánh tín để thấu hiểu Chánh pháp nhằm phụng sự cho Chánh Đạo. Hôm nay ngồi ghi lại những trang hồi ký, tựa đề “Hồi ký 26 Năm lưu đày” nên ít nhiều phải lược sơ về tiểu sử của mình trong đó có những bước khởi đầu của cuộc đời tu học, ắt hẳn em không quên chị và em tưởng chừng như chị đang ngồi trước mặt của em đây! Em cố nhớ lại đầy đủ những lời chân tình chị khuyên bảo, và cố hình dung chiếc áo tràng màu nâu sẫm mà chị thường mặc trong những ngày đi chùa lễ Phật, trông rất dịu hiền và mỗi khi chị cầm tay em dẫn đi trên con đường mòn sỏi đá năm xưa…

Trong thời gian trở về cố quán Bạc Liêu, tôi còn nhớ, song thân tôi thỉnh thoảng đưa tôi đến Thánh thất Cao Đài Bạc Liêu trong những ngày lễ lạc, cúng bái. Cha tôi dạy đọc kinh, nhưng, tôi lại thích tham gia sinh hoạt trong nhóm gia đình Phật tử. Tôi rất thích đội chiếc nón hướng đạo. Lúc đó tôi cho là đội chiếc nón ấy trông vừa đẹp, vừa hiền. Tôi thường đến chùa lạy Phật, đọc kinh hay đi lạy sám hối trong những ngày Sóc, Vọng. Tôi vừa học giáo lý tại chùa, vừa đi học chữ phổ thông bên ngoài. Tôi học rất chăm giỏi, thường xuyên phải đạt từ hạng nhất, kém lắm là hạng ba của mỗi tháng học và luôn được lĩnh phần thưởng cuối mỗi năm. Tôi rất kén chọn bạn để tiếp giao, để trao đổi việc học hành. 

Túc phúc thay! Duyên lành đến, tôi đã Quy y Tam Bảo và chẳng bao lâu sau đó, tôi xin phép mẹ cha được thí phát xuất gia, cắt ái từ thân và kể từ đây chính thức cuộc đời tôi bước sang một trang mới "Một con đường đầy hương hoa của đạo giác ngộ giải thoát". Sự tu hành của tôi rất tinh tấn tôi đã được tham dự nhiều khoá học Phật và kiết hạ an cư hàng năm, tham dự liên tiếp mấy khoá huấn luyện trụ trì từ Bạc Liêu cho đến Sóc Trăng, được nhiều cao tăng thiền đức chỉ giáo. Tôi thọ giới Sa di năm 1972 tại chùa Long Phước Bạc Liêu, lúc ấy Hòa Thượng Thích Đổng Minh còn mặc áo “Thiên Sam Nâu”. Ngài từ Nha Trang Sài Gòn đến Bạc Liêu được cung thỉnh làm Đệ nhất Tôn chứng và tôi thọ “Cụ Túc Giới” tại giới đàn “Thiện Hoa” nơi Tổ Đình Chùa Ấn Quang năm 1977 do Hòa Thượng Thích Trí Thủ, nguyên Viện Trưởng Viện Hóa Đạo làm đàn chủ và Đại lão Hoà Thượng Thích Hành Trụ đương kiêm phó Tăng Thống, (Tức Sa Môn Lê Phước Bình ) làm Chứng minh Đạo sư.

Nói tóm lại, trong thời gian tu học, tôi được bổ nhiệm về làm trụ trì tại ngôi chùa Vĩnh Bình, lúc tuổi rất còn trẻ chỉ 17 tuổi thôi, cho nên sự thông hiểu kinh, luật luận của tôi còn hạn chế. Tôi làm trụ trì, nhưng chỉ là chú Sa di, chứ lúc đó tôi chưa đủ tuổi thọ Tỳ Khưu Giới, ngôi chùa tôi trụ trì toạ lạc tại ấp Cái Dầy, xã Châu hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Bởi vì còn quá trẻ cho nên huynh đệ hay gọi tôi là "Tu sĩ sữa”, còn đồng bào phật tử xa gần họ gọi tôi đủ cách “có người gọi bằng huynh, có người gọi bằng thầy, có người gọi bằng ông đạo và có người lại gọi bằng cậu, bằng con, bằng cháu nữa!”. Tôi từng bước điều chỉnh một cách khéo léo và tế nhị, để mọi người thống nhất cách xưng hô. 

Bước đầu về chùa, tôi vừa tu, vừa mở trường dạy học và còn phải tiếp tục học phổ thông cho đến khi tốt nghiệp. Sau đó vì nhu cầu thiết thực của địa phương, tôi bắt đầu tham dự khoá 18 tháng Nam Y Dược và châm cứu do Đông y dược sĩ kiêm Châm cứu sư Trần Bá Lân nhiệt tâm truyền dạy. Khi mãn khóa học tôi trực tiếp điều hành phòng mạch hốt thuốc Nam và châm cứu tại Chùa Vĩnh Bình cùng với các môn đệ để điều trị bệnh giúp cho đồng bào, phật tử xa gần. Song song tôi còn được mời phụ trách cả ngôi chùa Vĩnh Bữu tại ấp Trà Văn xã Châu Hưng. Ngoài ra có thiện duyên được Hòa Thượng Thích Thiện Định chùa Lộc Hòa tại huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng ngỏ lời nhận làm Trưởng tử nối nghiệp truyền thừa, lại vừa Cố vấn và hướng dẫn bộ mạch Đông y - Châm cứu cho Đại Đức Thích Thiện Tâm là Huynh đệ của tôi đang trụ trì tại chùa Khánh Lâm, xã Tuân Tức nữa! 

Tôi đang bận rộn công việc Phật sự liên miên thì nhận thêm quyết định phân công của Hòa Thượng Thích Trí Đức đến khai mở phòng thuốc Nam, Châm cứu và giảng dạy giáo lý hằng tuần cho quý Phật tử tại chùa Từ Quang ấp 1 Cây Gừa, xã Thạnh Bình, huyện Giá Rai tỉnh Minh Hải. Chính hoàn cảnh ấy tôi phải đình hoãn học phổ thông nên không thể lên thành phố tiếp tục việc học được và tôi bắt đầu học hàm thụ tại Trung tâm giáo Dục “VÌ SAO” ở Sài gòn. Tôi học chuyên khoa Báo chí, bài vở được nhà trường gởi về tận chùa rất đầy đủ qua đường dây Bưu điện có cả những tài liệu chuyên nghiệp của các ký giả và phóng viên quốc tế. 

Hôm nay sẵn tiện trên trang mở đầu giới thiệu sơ lược về tiểu sử bản thân, tôi xin trần thuật lại tâm tư của mình về một sự việc rất ấn tượng diễn ra khoảng một vài năm trước năm 1975 có liên quan đến tôi trong thời gian làm trụ trì tại chùa Vĩnh Bình như sau: Vào thời điểm tôi đang học hàm thụ về khoa báo chí cho nên tôi thường xuyên đọc các loại báo để cập nhật phương pháp viết bản tin, ký sự, phóng sự điều tra, phóng tác, tùy bút, bình luận…

Một hôm tôi đọc đến mục giới thiệu các tác phẩm mới vừa xuất bản, tôi chợt nhận ra 1 tập thơ với tựa đề “Khói Lửa 20” của nhà thơ Lý Thụy Ý sẽ dành tặng miễn phí ưu tiên cho một số đọc giả biên thư về sớm nhất theo địa chỉ. Thật là “thiên tải giai kỳ” dịp may hiếm có, tôi vội vàng biên thư ngay hỏi xin tác giả. Lúc ấy thật tình tôi không biết nhà thơ là nam hay nữ để gọi cho đúng cách xưng hô, vì chữ lót giữa nếu là “Thị” thì dễ nhận, còn chữ “Thụy” thì khó phân biệt, bởi nam giới cũng có nhiều người dùng chữ lót nầy. Tôi phải đắn đo suy nghĩ để chọn từ cho thích hợp, cho dù tác giả thuộc giới tính nào cũng không bị sơ xuất nên tôi chỉ viết chung chung là: “Tình cờ đọc được tin trên báo, tôi thấy nhà thơ giới thiệu tập thơ tựa đề “Khói Lửa 20” vừa mới xuất bản. Đặc biệt sẽ dành tặng ưu tiên cho những độc giả biên thư về sớm nhất, tôi là nhà tu nhưng rất hâm mộ “Thi ca”. Nay mấy lời này xin nhà thơ hoan hỷ thi ân cho tôi 1 thi tập để học những thi pháp, tham khảo những thi tứ, ngâm vịnh những thi khúc và thưởng thức những thi vị của thi nhân. Xin kính gởi đến thi sĩ lời chân thành cảm ơn và cầu chúc mọi sự an lành, muôn điều phúc lạc”. 

Tác giả nhận được thư của tôi không biết có buồn cười họăc cảm thông cho một ông Sư vụng về hay không mà khoảng 1 tháng sau tôi nhận được tập thơ của tác giả gửi về tới tận chùa. Lúc nầy vì quá bận nhiều công tác Phật sự nên tôi vô tình không viết thư cảm ơn hồi âm đến tác giả. Đây là một điều thiếu sót đáng trách, mãi hơn 2 tháng sau tôi tiếp tục nhận thêm 1 tập thơ nữa. Lúc bấy giờ tôi rất lấy làm xấu hổ về sự khuyết điểm của mình nên không chần chờ thêm phút giây nào nữa cả, tôi bèn biên thư hồi âm và xin lỗi ngay. Tôi hy vọng tác giả sẽ nhận được sự hồi âm của mình, chỉ bấy nhiêu thôi tôi thấy tác giả là người rất đáng mến mộ và trân trọng. 

Thời gian hơn 30 năm sau, cho đến khi tôi được thuyên chuyển từ nhà tù Xuân Phước tỉnh Phú Khánh về trại giam Z 30A huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, tôi có cơ duyên tiếp xúc với 2 nhà văn, Bác Doãn Quốc Sĩ và Ông Hoàng Hãi Thủy. Hai vị có giới thiệu nên tôi mới nhận ra tác giả Lý Thụy Ý của tập thơ “Khói Lửa 20” mà hồn thơ tôi rất tâm đắc là một nữ thi sĩ tài hoa. Hôm nay ngồi tại tư gia ghi lại mấy dòng hồi ký nầy chứ không phải tại mái chùa xưa nơi đón nhận tập thơ thuở trước. Lòng tôi cảm thấy man mác bồi hồi một nỗi niềm hoài cảm với những thi sĩ có những vần thơ dạt dào rung động ngày xưa… của một thời đã qua. Cho dù tôi chưa có dịp tiếp kiến với nữ thi sĩ, cũng như hơn một phần tư thế kỷ tôi bị giam hãm trong chốn lao tù, thì tập thơ hay có nhiều kỷ niệm kia cũng âm thầm, buồn lặng mai một trôi theo dòng thời gian nay không biết đã về đâu!?

Tuesday, November 29, 2016

ĐỌAN TRƯỜNG BẤT KHUẤT

SÁT NHÂN BẨM SINH !!!      Trong các trại tù Cộng Sản mà tôi đã đi qua, tên giám thị Phi Sơn là một tên khát máu nhất mà theo nhà tội phạm học Lombroso thì y quả là loại người “Sát nhân bẩm sinh”. Phi Sơn là bí danh của y còn tên thật là gì thì không ai rõ, bí danh này có từ khi y còn là trưởng ban ám sát tỉnh Lâm Đồng, một tay y đã giết biết bao nhiêu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa và cả đồng chí của y nữa.
     Dáng người dị dạng cao lều khều, lúc đi lưng hơi còng, cặp mắt đỏ ngầu sâu hoắm, đôi lông mày rậm và gò má nhô lên, mặt lạnh như tiền, hai hàm răng lúc nói chuyện san sát như nghiến lại nên dường như tù nhân nào cũng không dám nhìn thẳng vào mặt y. Trong lúc uống rượu cao hứng say sưa kể lại chính tay y đã giết không biết bao nhiêu là người … Nghe nói có lần y bắt một viên đại uý ở chi khu Đơn Dương tỉnh Lâm Đồng thì phải, sau khi đánh đập tra tấn không khai thác gì được, y tức lắm... Y trói hai tay vào một gốc cây rồi lấy lưỡi lê khoét 2 mắt cho máu chảy ra cho đến chết. Mấy tuần sau, khi tiểu khu Tuyên Đức hành quân mới tìm được thì xác viên Đại Úy đã thối rữa, dòi bọ bò lổn nhổn, ruồi kiến bu quanh!
      Viết đến đây, lòng như chùng xuống, lắng đọng đau buồn rồi niềm căm phẫn trào dâng cái chủ nghĩa vô thần cuồng tín với những "Động vật Cao cấp Phi Sơn", vô hồn vô cảm bất nhân hại dân bán nước đang thống trị dân ta.
      Chính ông cựu Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái đã kể cho tôi nghe về cách đối xử “nhân đạo” đầy tình người của y đối với những người tù bệnh hoạn ốm đau. Số là phe ta ở các trại, sau một thời gian lao động khổ sai ai cũng đau ốm không nhiều thì ít. Khi khai ốm, mang chăn mền lên phòng “tắm hơi” là một nhà nhỏ, che và lợp bằng tôn nên buổi trưa dù ở Bảo Lộc vẫn nóng mồ hôi nhỏ giọt. Tiêu chuẩn mỗi người được lưng chén cháo khoai mì, một lon guigoz nước mỗi ngày. Trưa hôm đó, không thấy nhà bếp phát cháo, anh em xôn xao ngơ ngác hỏi thì biết đó là lệnh của “Ban Phi Sơn” chỉ cho anh em một chén nước luộc củ mì. Lúc sắp điểm danh vào phòng, tên trật tự Tường được lệnh thu hết gậy chống, mùng mền và nói ai đi được thì đi, không đi được thì bò về phòng. Nếu không về tối nay không bảo đảm tính mạng...
       Ai nghe cũng lạnh người vì vốn biết tên này giết người không gớm tay chút nào. Thế là chẳng ai bảo ai đều nằm xuống bò lê bò lết, kẻ trước người sau giống như cái trò thể thao “khuyết tật” quay chậm bây giờ. Thật là cười ra nước mắt, trông cảnh này ai mà không thương nhưng cũng thấy tức cười vì trong đó cũng có một vài anh em mình cũng giả ốm để gặp nhau nói chuyện đỡ buồn!
      Năm ngoái, một anh hình như là cảnh sát đặc biệt ở tù lâu quá, khi lên cơn chửi rủa Hồ chí Minh thậm tệ. Phi Sơn bắt lên, chính tay y lấy kìm bẻ gẫy mấy cái răng máu me đầy mồm, anh bạn mình chỉ kịp la ối một tiếng rồi ngất đi. Tên giám thị gian ác cười ha hả rồi chửi “Địt mẹ mày, sao mày không chửi bố mày mà chửi bác tao... !”. Anh bạn nhà mình đau quá, tá hoả tam tinh rồi hình như từ đó bớt chửi hơn, có chửi thì lải nhải trong miệng chứ không thấy gào lên la làng như trước!
      Tên Phi Sơn này thường cúi đầu đi lầm lũi một mình như bóng dáng của tử thần, lúc nào cũng lầm lì không nói mà đã nói ra là cùm, cùm cho nó rục xương, là giết chóc mà chưa bao giờ nghe y nói thả ai ra bao giờ. Chính Phi Sơn đã ra lệnh cùm một anh cán binh chiêu hồi đến chết, khi khiêng xác ra thì thấy đầu chỉ còn trơ xương trán, sau gáy ót sau bẹt ra, người gầy ốm tong teo còn hơn dân Somali chết đói bên Phi Châu.
     Khi vừa viết đến đoạn này thì tôi nhận được một bài nghiên cứu về tâm lý thần kinh của Nguyễn Quang, một cựu tù nhân ở Thung lũng tử thần. Trong đó có đoạn viết về tên hung thần khác mà theo nhà tội phạm học Lombroso gọi là “sát nhân bẩm sinh” như sau: “Lâm cán bộ an ninh trạc 30 tuổi, trong ánh mắt sâu chỉ có màu trắng và một chút con ngươi đen muốn chìm hẳn, dường như y luôn có ảo giác quyền lực: Đó là quyền giết người, y hầu như không có nụ cười, con người ốm o, ho hắng khục khặc này lúc nào mở miệng ra là “Cùm”, cùm … cho nó chết. Nét chung của bọn cán bộ trẻ nầy là không có từ nào về sống còn, sống sót, sống với, cứu người, giúp người … Đó là những từ quá xa lạ với chúng.
      Những ai đã từng qua trại Thung lũng tử thần, thật sự đều rùng mình khi nhớ lại từng tên cán bộ an ninh ở đây, mỗi tên đồ tể đó đều có nét riêng của sự ác khác nhau … và người ta không ghê  tởm sự hôi thúi của xác chết bằng chính mùi tanh lạnh lùng của kẻ giết người, trước cái chết của đồng loại chúng còn nhân danh chuyên chính vô sản lạnh lùng nói: “Tao sẽ cùm mày cho mày chết rục xương. Chúng mày phải chết, chết hết...     Giết một người đã là khác thường, giết nhiều người lại nhân danh chính nghĩa ư? Đó quả là thứ ảo giác của triệu chứng tâm thần thời đại cộng sản !!!”.      Trại Đại Bình còn giam giữ nhiều anh em Thượng trong đó có anh K’ Jip án chung thân. Bị cùm còng lâu ngày, anh K Jip thường kêu tên y chửi nên bị cúp phần ăn không cho uống nước. Chính tên Phi Sơn đã ra lệnh cùm còng anh K’Jip cho đến chết không tháo cùm còng. Cuối cùng chịu không nổi anh đã chết vì suy kiệt, khi anh em tù vào khiêng xác thì thấy chỉ còn một hình nhân với bộ xương cách trí, ống quyển và chân sưng lên lở loét đỏ lòm, dòi bọ bò lúc nhúc. Lúc anh em bước vào nâng người anh ta dậy thì nền xi măng nhám nhúa kéo lại mảng da lưng bầy nhầy máu mủ đông đặc. Tên cán bộ một tay bịt miệng một tay mở khoá không được vì rỉ sét lâu ngày nên bảo anh em lấy xà beng vào tháo giỡ cả cái cùm, lấy chiếu bó lại rồi đem đi chôn cùng với người anh em tù xấu số này!
      Suốt mấy ngày cả trại anh em ai cũng ngơ ngác đau không ai muốn nói với ai điều gì, chỉ biết im lặng thở dài ngao ngán … Không biết bao giờ tới phiên mình hắt hiu hiu hắt như anh bạn K’Jip thân thương của mình đây. Trên thế gian có còn cảnh tượng nào đứt ruột hơn nơi địa ngục trần gian này hở trời?
  CẮT GÂN TRA TẤNRỒI MỚI ĐẬP ĐẦU TÙ CHO ĐẾN CHẾT!!!      Thời gian ở trong tù, thi sĩ Tú Kếu có làm bài thơ tuy lấy tên là “Vô đề”, đó là tiếng kêu bi thương, lời phản kháng trước những hành động phi nhân của những con người Việt gian Cộng sản vô cảm vô hồn. Làm sao mọi người chúng ta có thể biết được cộng sản dã man vô nhân đạo đến chừng nào nếu không có những chứng nhân của lịch sử. Tú Kếu là một chứng nhân sống đã từng chứng kiến cảnh chúng tử hình những người anh em của mình. Chính Tú Kếu đã nhìn thấy cảnh anh em mình cong người lên lãnh hàng loạt đạn vào người... trong u uất nghẹn ngào...
      Khoảng tháng 8 năm 1980, anh em tù nhân chính trị đội 21 trại Đại Bình tổ chức vượt trại, một số anh em bệnh hoạn không đủ sức vượt trại nên khai bệnh ở nhà trong đó có Tú Kếu. Hồi đó mỗi đội đi lao động thường có 1 tên quản giáo đeo súng ngắn, 2 hoặc 3 tên võ trang cầm súng AK đi theo. Theo đúng kế hoạch, anh em đã sắp xếp cho 2 anh em khoẻ đi kèm một tên cán bộ võ trang. Lúc toán đầu của đội băng ngang qua cây cầu cây Đại Bình là khúc quanh, bọn công an đi sau bị che khuất là toán cảm tử đi đầu nhảy ra chụp tên võ trang. Cũng lúc đó 2 toán sau cũng đồng loạt bay ra chụp 2 tên còn lại... Tất cả mọi tính toán đã thành mây khói do một thoáng do dự nên khi Long nhảy ra ôm tên võ trang thì tên võ trang dẫn toán thứ hai đã đi qua khúc quanh, nó nhìn thấy nên nhảy ra bắn xâu táo chết luôn tên cán bộ. Bọn công an tàn sát thẳng tay, 6 xác anh em máu me đầy người nằm ngổn ngang, trong khi cả đội chỉ biết nằm úp xuống nín thở phó thác số mệnh cho sự rủi may may rủi...
       Ban giám thị ra lệnh tập họp dẫn đội về trại, sau khi nhập trại bọn an ninh đánh đập anh em tàn nhẫn để khai thác. Tên giám thị Phi Sơn ra lệnh dẫn 4 người anh em ra khỏi trại, cả đội hồi hộp đợi chờ suốt đêm không thấy về chắc là anh em bị chúng đem đi nhốt ở xà lim. Sáng hôm sau xuất trại mới nghe anh em lao động tự giác kể lại là họ phải đi chôn 4 người anh em, tay chân bị cắt gân đầu gối, cắt nhượng gót chân, đầu bị đập bể nát thảm thương vô cùng. Cả mấy tuần sau anh em ăn không vô, làm sao nuốt nổi miếng cơm như còn đọng ngay nơi cuống họng, không phải một con ngựa đau mà tới mười con người, mười người anh em đồng chí hướng đã tức tưởi hy sinh thảm thiết. Tú Kếu đã nghe chính một cán bộ có tình cảm với anh em tù chính trị kể lại kể lại cảnh tra tấn bằng cách lấy lưỡi lê cắt gân chân để khảo tra rồi đập đầu cho đến chết …  Những cảnh tượng dã man không thể tưởng tượng được, những hờn căm u uất nghẹn ngào đã được Tú Kếu diễn tả qua bài thơ “Vô đề” chính là bản cáo trạng của cộng sản bạo tàn trước lịch sử, trước lương tri của nhân loại văn minh tiến bộ hôm nay:
               Chính đêm ấy ... mảnh trăng liềm đẫm máu             Tưởng chừng như thân thể bạn bè tôi              Uốn cong lên, khi bị bắn tơi người              Miệng nguyền rủa, nhưng không còn tiếng nói...              Môi mấp máy, đúng môi còn mấp máy              Như muốn tuôn dòng … thác đổ căm hờn              Như muốn gào to … Không thể dã man hơn...              Không thể dã man hơn … quân khốn kiếp!      Thời gian xảy ra vụ thảm sát Đại Bình, tôi và linh mục Trần Thế Phiệt bị giải giao lên xà lim tử hình ở Đà Lạt lấy cung vì tội âm mưu tuyên truyền chống phá trại. Tôi viết cho linh mục Phiệt về “Đường hướng cách mạng hoá hiện đại hóa Việt Nam”, không hiểu do sơ ý thế nào mà linh mục Phiệt giấu trong cuốn giấy vệ sinh bị bọn cán bộ an ninh tìm thấy khi xét phòng. Tôi được anh em thông báo nên trong lúc cung khai tôi một mực tử thủ lời cung là chỉ viết lại để nghiên cứu bài viết chủ trương của thủ tướng Jamaica đăng trên mẩu báo nhân dân tôi nhặt được cách đây khoảng 1 năm. Lúc dọn phòng tôi để quên trong cuốn giấy vệ sinh chứ không viết để gửi cho ai cả. Tôi cố kéo dài cung cán may ra thời gian có thể cứu sống chứ lần này thì ăn gà là cái chắc rồi.  Sau gần một tháng trời, 2 tên cán bộ an ninh thay phiên hỏi cung ngay cả giữa nửa đêm không cho tôi một lúc nào yên ... Cuối cùng, tên Truyền “cán bộ giáo dục”, bí thư chi bộ trại tù tức quá chỉ mặt tôi nói: “Chắc Phạm Trần Anh sợ không sống nổi trong bốn bức tường đá nên viết lại cho Trần Thế Phiệt tiếp nối sự nghiệp chống cộng chứ gì. Tôi đã tìm đọc hết báo chẳng có thủ tướng nào cả mà chỉ có Phạm Trần Anh viết ra mà thôi … Tôi nói với anh lần chót, nếu anh thành khẩn khai báo thì tôi lấy danh dự bảo đảm với anh là sẽ khoan hồng cho anh. Còn nếu anh ngoan cố thì anh làm hành chánh, anh biết rồi đấy, chỉ cần vài tờ báo cáo là xong hồ sơ…”.  Tôi biết là tên này lấy vụ bắn anh Quý ở hàng rào ra hù doạ thôi chứ bố bảo nó cũng không dám bắn vì chúng còn phải khai thác tìm ra anh em trong tổ chức mà chúng gọi là “đồng bọn”. Tôi nói với y là “Tôi cám ơn cán bộ nếu cán bộ dám bắn tôi để mẹ tôi bớt khổ, vợ con tôi bớt khổ vì lo lắng cho tôi ...”. Nói xong tôi xin phép đi tiểu. Tôi đánh ván bài tẩy, mình tẩy “xì” mà nên bắt luôn tẩy “sất” của y, nó chưa khai thác được cung cán thì làm sao mà dám bắn. Tôi đứng dậy đi ra gần hàng rào đứng đái thoải mái. Đái xong tôi đứng đó đưa mắt nhìn lên ngọn núi Đại Bình nổi bật trên nền trời xanh như chờ đợi loạt đạn kết thúc đời mình nhưng chẳng thấy động tịnh gì, mấy phút sau thì nghe y kêu lớn “Thôi về phòng”. Không khai thác được gì nên Trại quyết định giải giao lên Ty Công an Đà Lạt, tên giám thị Phi Sơn tuyên bố trước trại là: "Chung thân mà còn chống thì tử hình, các anh chống mắt mà xem thằng Phạm Trần Anh có trở về không?".
      Một năm sau, chúng tôi được đưa về lại trại Đại Bình trước sự mừng vui của anh em trong lúc ban giám thị trại tức tối ra mặt. Mỗi lần trại báo động là bọn võ trang chạy tới mở cửa sổ xà lim kêu tên tôi “Phạm Trần Anh ngồi dậy” rồi chúng chĩa súng thẳng vào ngực tôi rồi lên đạn AK nghe xoạch một cái khiến cả phòng xanh máu mặt. Bản thân tôi lúc đó cũng choáng váng nhưng rồi chúng lại đóng cửa sổ lại, từ đó một tháng khoảng 4,5 lần chúng khủng bố tinh thần tôi liên tục mỗi khi có tiếng kẻng báo động. Chính vì vậy anh em nhắn vào nói tôi phải cẩn thận, có đau ốm thì đợi bác sĩ phe ta vào chữa trị đừng khai báo gì với y tá trại. Tôi vẫn bình thản chấp nhận vì tin vào cái số chưa chết của mình, đã hai lần thoát bản án tử hình trông thấy mà chính tôi cũng không ngờ là tôi có thể qua được …





Saturday, March 8, 2014

Văn bút Quốc tế quan ngại sức khỏe tù nhân lương tâm VN

RFA 08.03.2014 

 

0000081161-3-305

Thầy Đinh Đăng Định tại bệnh viện hôm 17/10/2013.

Hình do gia đình cung cấp 

 

Ủy ban Văn bút Quốc tế Bênh vực Nhà văn bị đàn áp hôm ngày 7 tháng 3 vừa qua ra kháng nghị thư trong đó bảy tỏ quan ngại sâu sắc về tình trạng sức khỏe được ủy ban này cho là suy kiệt của ba tù nhân lương tâm tại Việt Nam. Đó là ông Nguyễn Hữu Cầu, nhà giáo Đinh Đăng Định và linh mục Nguyễn Văn Lý.

 

Ủy ban này lên tiếng kêu gọi chính quyền Việt Nam trả tự do cho cả ba người vừa nói vì theo Ủy ban Văn bút Quốc tế Bênh vực Nhà văn Bị đàn áp thì sự an toàn nhân cách và thân thể của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng.

 

Ông Nguyễn Hữu Cầu sinh năm 1945, thường được gọi là tù nhân lương tâm thế kỷ vì ông phải thụ án tù quá lâu. Sau lần đi cải tạo sau năm 1975, ông bị bắt lại vào năm 1982 và bị kết ản tử hình hồi năm 1983. Đến năm 1985 án tử hình đổi thành tù chung thân. Hồi trước tết năm nay gia đình ông được hứa là ông Nguyễn Hữu Cầu sẽ được trả tự do vào dịp Tết nhưng lời hứa đó không được thực hiện.

 

Linh mục Nguyễn Văn Lý, sinh năm 1964, bị kết án lần gần nhất là vào năm 2007 với bản án 8 năm tù giam và 5 năm quản chế. Hồi năm 2009, ông bị tai biến mạch náu não. Ông được cho ra chữa bệnh một thời gian từ tháng 3 năm 2010; nhưng đến tháng 7 năm 2011 ông bị đưa vào trại giam trở lại.

Nhà giáo Đinh Đăng Định, sinh năm 1963. Ông công khai lên tiếng chống dự án khai tác bô xít ở Tây Nguyên và kêu gọi đa nguyên - đa đảng cho Việt Nam. Ông bị bắt hồi năm 2011 và bị tuyên án 6 năm tù hồi năm 2012. Hiện ông đang được tạm hoãn thi hành án một năm để chữa bệnh ung thư dạ dày giai đoạn cuối.


Monday, February 10, 2014


Phỏng vấn nhà hoạt động Nguyễn Bắc Truyển sau khi được phóng thích

Nhà hoạt động Nguyễn Bắc Truyển (phải) đã được thả tối ngày 10/2, một ngày sau khi bị bắt tại Đồng Tháp.

Nhà hoạt động Nguyễn Bắc Truyển (phải) đã được thả tối ngày 10/2, một ngày sau khi bị bắt tại Đồng Tháp.

 

24 giờ sau khi thông tin về vụ hàng trăm công an bao vây, dùng võ lực tấn công, bắt giam nhà bất đồng chính kiến Nguyễn Bắc Truyển tại Đồng Tháp hôm 9/2 nhanh chóng được loan tải trên các trang mạng xã hội, ông Truyển đã được phóng thích vào tối hôm nay 10/2 tại Sài Gòn.

Trao đổi với VOA Việt ngữ khi về tới nhà, nhà hoạt động cổ xúy nhân quyền và tự do tôn giáo và cũng là một cựu tù nhân lương tâm, Nguyễn Bắc Truyển, thuật lại chi tiết vụ bắt giữ gây xôn xao cộng đồng mạng chỉ vài ngày sau khi Việt Nam kiểm điểm thành tích nhân quyền UPR tại Liên hiệp quốc.

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Cách đây 1 tiếng, tôi được thả từ trại giam Chí Hòa.

VOA: Khi anh bị bắt, họ đưa anh đi đâu và làm việc với anh về những vấn đề gì?

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Họ chở tôi về Sài Gòn. Họ nói: ‘Chúng tôi chỉ áp giải anh từ Lấp Vò (Đồng Tháp) về Sài Gòn về vấn đề công nợ của công ty cũ của anh trước đây. Trước khi bị bắt tháng 11/2006, tôi là giám đốc công ty vận tải quốc tế Việt-Thịnh-Phú và tổng giám đốc của công ty khai thác đá granite ở Kontum. Khi tôi bị bắt, toàn bộ hai công ty ngưng hoạt động, xảy ra tình trạng công nợ một số người và dĩ nhiên cũng nhiều người nợ công ty. Khi ra tù, tôi bị quản chế nhưng trong thời gian đó tôi vẫn cố gắng trả. Thời gian gần đây, không hiểu sao tự nhiên các chủ nợ đưa đơn lên công an nói rằng tôi ‘chiếm đoạt tài sản’ trong khi họ biết rằng công ty tôi bị phá sản do vụ án ‘tuyên truyền chống nhà nước’ mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cáo buộc tôi hồi 2006. Tôi rất đau lòng khi có những tài sản giá trị lớn mà phải bán đi với giá rất rẻ để trả nợ, nhưng tôi vẫn làm.

VOA: Trong 24 giờ câu lưu anh vừa qua, họ còn làm việc với anh về vấn đề nào khác không và thỏa thuận như thế nào trước khi phóng thích anh?

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Họ yêu cầu tôi trả lời các câu hỏi nhưng tôi nói tôi chỉ trả lời khi có luật sư của tôi ở đây. Trước khi họ thả tôi, họ nói: ‘Chúng tôi là cảnh sát điều tra, chỉ làm việc với anh về vấn đề công nợ, không liên quan đến chính trị hay an ninh quốc gia. Do đó, đề nghị anh liên hệ với các chủ nợ đưa đơn tố cáo anh để dàn xếp với họ, chúng tôi sẽ đóng vụ án này lại.” Mai tôi sẽ gặp các chủ nợ hỏi lý do vì sao họ gửi đơn như vậy vì đây là một vụ án dân sự, tại sao họ lại gửi đơn cho cảnh sát điều tra biến thành một vụ án hình sự. Làm việc với cảnh sát điều tra, tôi đã nói thẳng rằng: “Các anh đã vi phạm luật pháp, bắt người không đúng mà còn đánh đập tôi nữa. Do đó, tôi từ chối trả lời thẩm vấn của các anh và không ký vào các văn bản.” Cảnh sát điều tra ở Sài Gòn cũng nhìn nhận vấn đề đó là không đúng. Còn công an tỉnh Đồng Tháp chủ trương tấn công gia đình chúng tôi, họ đi rất đông. Họ đập phá đồ đạc trong nhà. Khi họ bắt tôi, họ bẻ tay, lấy băng bịt miệng bịt mắt tôi lại. Họ ấn tôi xuống nền gạch và rất nhiều người đánh vào đầu, lưng, bụng, hai vai tôi.

VOA: Với cáo buộc ‘chiếm đoạt tài sản’ mà anh bị bắt với một lực lượng võ trang đông đảo như vậy, kể cả hành hung và bắn chỉ thiên. Anh có thắc mắc gì không?

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Tôi nghĩ công an tỉnh Đồng Tháp đã ghim tôi từ rất lâu rồi. Khi tôi về huyện Lấp Vò này, họ đã nhiều lần nhắn tin vào Facebook và điện thoại di động đe dọa nếu tôi không rời khỏi Lấp Vò về Sài Gòn thì những người thân bên vợ tôi sẽ bị chém. Thậm chí họ còn đòi thảy chất nổ vào nhà. Nhà tôi đêm nào cũng bị họ chọi gạch vào. Ống thoát nước thì họ bít kín lại. Chúng tôi yêu cầu công an xã can thiệp thì họ nói không phải trách nhiệm của họ. Tôi nghĩ họ rất căm tức khi tôi có mặt tại Lấp Vò vì sự có mặt của tôi ở đây cản trở việc đàn áp tôn giáo của họ ở khu vực miền Tây này.

VOA: Anh có những hoạt động thế nào liên quan?

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Bất cứ chuyện đàn áp nào đối với Phật giáo Hòa Hảo cũng như những thông tin liên quan đến Phật giáo Hòa Hảo, tôi đều cố gắng đưa lên Facebook cũng như các trang truyền thông khác để mọi người hiểu rằng đây là một tôn giáo rất ôn hòa, nhưng nhà cầm quyền luôn cấm đoán hoạt động sinh hoạt tôn giáo của họ.

VOA: Anh có nghĩ tới các phương pháp nào để tự vệ cho mình?

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Ở Việt Nam, chúng tôi không còn cách nào khác là phải chịu trận. Họ có bắt mình bỏ tù, mình cũng phải chịu trận thôi. Tôi tin rằng đồng bào bên ngoài luôn cổ võ, ủng hộ chúng tôi. Tôi đã nhiều lần nói với công an rằng: “Bắt tôi thì dễ nhưng thả thì nhức đầu lắm đó. Nếu anh không tin, anh lên mạng xem mọi người đang nghĩ gì về tôi.”

VOA: Anh muốn gửi thông điệp gì đến những người quan tâm đến anh, chẳng hạn như những nhà lập pháp-hành pháp Hoa Kỳ từng trao đổi với anh về vấn đề nhân quyền Việt Nam?

Ông Nguyễn Bắc Truyển: Cơ quan hành pháp-lập pháp Hoa Kỳ luôn ủng hộ tiến trình dân chủ tại Việt Nam. Tôi mong rằng sắp tới đây họ sẽ có những phương thức hữu hiệu hơn để ủng hộ những nhà đấu tranh trong nước Việt Nam. Một lần nữa, tôi xin cảm ơn các cơ quan hành pháp-lập pháp Hoa Kỳ rất nhiều đã luôn ủng hộ chúng tôi.

Ông Nguyễn Bắc Truyển đã được thả

0:00:00

X

VOA: Xin cảm ơn anh dành thời gian cho cuộc trao đổi này.



Trà Mi-VOA