Saturday, November 26, 2016




TÌ TÚC LÃNH KÌM ƯU QUỐC SỰ

Ôm chân cùm lạnh đêm Đông,
Nửa mong việc nước, nửa trông tin nhà …

     Hồi còn là học sinh ngồi dưới mái trường thân yêu nghe thầy giảng về Truyện Kiều của Nguyễn Du, lắng nghe tâm trạng “Hoài Lê” của Đại thi hào Nguyễn Du vẫn không thể nào hiểu nổi với cái vốn liếng nghèo nàn về Hán Việt của một học sinh Trung học:

“Quốc phá gia vong, gia quốc lệ ..
Lục tuần lao ngục tử sinh tâm ...”.

     Thì ra đại thi hào cũng đã ở tù vì thù nhà nợ nước với tấm lòng thanh thản không biết sống chết là gì … Thế nên nổi hứng dám liều làm 2 câu thơ đồng cảm với đại thi hào một phen:

“ Quốc phá gia vong, vong quốc hận..
Thập niên diện bích bất tử tâm! ”

     Chẳng phải là can đảm hay ho gì nhưng ở tù lâu quá, ngồi nhìn trừng trừng vào mấy bức tường suốt gần 9 năm trời nên không phải không sợ chết như đại thi hào mà là lì đòn, tới đâu thì tới, điếc không sợ súng nữa thế thôi! 

     Trong lịch sử văn học Việt Nam có rất nhiều người yêu nước nhưng chỉ có hai danh nhân văn hoá Việt luôn luôn thao thức trăn trở về vận nước, luôn luôn nhớ về cố quốc về lãnh thổ xa xưa của Việt tộc. Đại thi hào Nguyễn Du trong “Bắc Hành Tạp Lục” gồm 109 bài thơ chữ Hán, tất cả đều nói lên tâm tư hoài cổ tìm về về lịch sử xa xưa của Việt tộc như  Cửu Lê, Lũng Thục, Kinh Châu, Dương Châu, Trường Sa, hồ Động Đình, Lưỡng Quảng …. Đặc biệt Nguyễn Du đã biểu lộ tâm trạng nuối tiếc, tấm lòng của môt con dân đất Việt trong bài “Triệu Vũ Đế cố cảnh” như sau:

“Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu”

mà kẻ hèn này xin tạm dịch là: 

“Còn đâu cổ mộ Phiên Ngung một thời ..!”.

     Khi đi sứ sang Tàu, đứng trước cảnh cũ người xưa, nhìn lại giang sơn gấm vóc của tiền nhân nay đã không còn nữa. Nguyễn Du đã cảm khái bài “Đổng Tước Đài”. Trong bài “Phản Chiêu Hồn”, “Vịnh Khuất Nguyên”, vịnh những địa danh xưa cũ của Việt tộc. Nguyễn Du đã nói lên tâm sự u hoài hướng vọng về cố hương, quê cha đất tổ của con cháu Rồng Tiên trước cảnh suy vong của Văn Lang xưa cũ nên mới cay đắng thốt lên: “Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng ..!”. Đại thi hào Nguyễn Du cũng làm thơ vịnh Hạng Võ, người anh hùng khí đoản của Việt tộc đã chịu thất bại trước một Lưu Bang tầm thường của Hán tộc như sau:

Cập thức bại vong phi chiến tội,
Không lao trí lực dữ thiên tranh 
Cổ kim vô ná anh hùng lệ,
Phong vũ không văn sất sá thanh!

Lẽ được thua vốn tùy vận số,
Sức người sao cưỡng nổi số trời 
Xưa nay anh hùng thường nuốt lệ,
Gào thét gầm vang át gió mưa!

     Tôi còn nhớ mãi truyện kể về mối tự tình dân tộc của Nguyễn Du và một chủ nhân lò gốm cũng là người Việt cổ bên Giang Ninh ở Hoa Nam Trung Quốc. Chủ nhân nhờ thi hào viết lên mấy vần thơ trên bộ đồ gốm để làm kỷ niệm nhân gặp người đồng bào tri kỷ của mình. Nguyễn Du cảm khái đặt bút viết ngay 2 câu:

“ Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ Hạc là người quen”.

      Mai và Hạc là biểu trưng Việt tộc của hoạ phái Hoa Nam khiến chủ nhân hết sức cảm động, ôm Nguyễn Du mà khóc rồi hủy luôn khuôn đúc. Trước lúc chia tay, chủ nhân lò gốm đã trịnh trọng biếu Nguyễn Du bộ tách trà để làm kỷ niệm gặp lại người đồng bào Việt “văn hay chữ tốt” của mình!

     Đại thi hào Nguyễn Trãi cũng phiêu dạt sang Trung Quốc để tìm theo cha là Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt đưa sang Tàu. Nhờ đó, Nguyễn Trãi tìm lại những địa danh xưa cũ của Việt tộc nên khi về nước, Thi hào Nguyễn Trãi đã khẳng định trong áng kim cổ hùng văn "Bình Ngô Đại Cáo": 

“Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.”

“Chỉ có nước Đại Việt ta từ trước,
Mới có nền văn hiến ngàn năm ...”.

     Sau khi về nước, thi hào Nguyễn Trãi đã viết bộ "Dư Địa Chí" của Việt Nam trong đó danh nho Nguyễn Trãi đã xác định như sau: “Trong sách chương của Thiên Vương có gọi Việt Nam, Nam Việt, Giao Chỉ, An Nam, Nam Bình, ngày nay cũng xưng là Việt Nam”.

     Đại Thi hào từng đêm ngồi ngắm sao Ngưu Đẩu ở phương Bắc để hướng vọng về Trung nguyên của Tổ tiên Bách Việt thuở xa xưa: “Dạ y Ngưu Đẩu vọng Trung Nguyên”. Đặc biệt, đại thi hào Nguyễn Trãi cũng ngồi ôm chân cùm mà lo âu về vận nước nên mới xuất khẩu thành thơ bài “Tì túc lãnh kìm ưu quốc sự!”. 

    Hồi còn là học sinh trường Trung học Nguyễn Trãi, tôi rất thích áng văn bất hủ “Bình Ngô Đại cáo” của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi, mãi đến bây giờ tôi mới cảm thấy có sự đồng cảm lạ lùng và thật sự thán phục chí khí của Đại thi hào Nguyễn Trãi. Suốt đêm nằm ngủ không được miên man nhớ tới Ức trai Tiên sinh “Quán tưởng Ức Trai dạ bất miên” nên diễn ý thành mấy câu thơ như sau:

Ôm chân cùm lạnh đêm đông,
Nửa mong việc nước nửa trông tin nhà
Ức Trai Nguyễn Trãi thi ca,
Ngàn năm văn học nước nhà lưu danh ...”.

PHẠM TRẦN ANH
* Thơ của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi



KÍNH DÂNG 
HỒN THIÊNG SÔNG NÚI
DÒNG GIỐNG RỒNG TIÊN
QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG LẬP QUỐC
ANH THƯ HÀO KIỆT ĐỜI ĐỜI BẢO QUỐC AN DÂN










Nhớ xưa Quốc Tổ dựng nền
Ngàn năm văn hiến sử thiên anh hùng
Bọc điều trăm họ thai chung
Đồng bào tiếng gọi vô cùng Việt Nam!
PHẠM TRẦN ANH


DI CHÚC MUÔN ĐỜI

 “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Quốc. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải mà ta phải nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họ không bao giờ tôn trọng biên giới quy ước. Họ cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặnMột tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác...

Ta muốn lời nhắn nhủ này như một di chúc cho con cháu muôn đời sau. Quá khứ là gốc rễ của tương lai, rễ càng đâm sâu thì cây mới vững vàng và càng vươn cao.

VUA TRẦN NHÂN TÔN(1279-1293)


Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào có thể vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay, lẽ gian.  Nếu ngươi dám đem một thước sông, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho gìặc, thì phải tội tru di … .

VUA LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497)



DUY NGÃ ĐẠI VIỆT CHI QUỐC
THỰC VI VĂN HIẾN CHI BANG…
NGUYỄN TRÃI

CHỈ NƯỚC ĐẠI VIỆT TA TỪ TRƯỚC
MỚI CÓ NỀN VĂN HIẾN NGÀN NĂM …
PHẠM TRẦN ANH
Cẩn dịch




Chúng ta đều do Tổ Tiên sinh ra, không cứ là trai gái già trẻ, không cứ là chi tộc nào, dòng họ nào. Mọi người đều là CON RỒNG CHÁU TIÊN, từ một bào thai của mẹ Âu nên tất cả đều từ một mẹ sinh ra các ngành các chi mà thôi. 

    Cành cây lớn muôn lá, gốc vốn ở rễ. Nước có nghìn dòng sông, muôn ngọn suối, vốn có gốc từ một ngọn nguồn. Cảnh vật còn như vậy, huống chi là con người chúng ta. Con người sinh ra đời, đời đời nối tiếp về sau, đều do các người đời trước nuôi nấng dìu dắt vậy.

    Ngưỡng mộ và tưởng nhớ Tổ Tiên, chúng ta hãy lấy việc siêng năng mà bồi đắp cho gốc rễ. Lấy sự cần kiệm làm răn rồi tu nhân tích đức, giàu lòng thương người hơn là chê bai ghen ghét người. Là con cháu thì chúng ta phải nối tiếp truyền thống của Tổ Tiên, chứ lẽ nào con cháu mà lại không suy nghĩ về ý nghĩa thâm trầm cao đẹp nói trên hay sao?”.

HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG

(Nói chuyện với các bô lão làng Vân Nội)

BÁCH VIỆT TỪ ĐƯỜNG TỘC PHẢ

Chú giải của La Sơn Phu Tử



Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ứng xử như vậy. Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo hành động như thế! ”.

KHỔNG PHU TỬ

Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông hun đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất ”.

HÁN HIẾN ĐẾ (189-220)

“ Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy ”.

TƯ MÃ THIÊN

"Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước, yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã-hội của Tổ tiên đã xây dựng nên mà để lại cho mình".

TRẦN TRỌNG KIM (Việt Nam Sử Lược)

“ Một việc phi thường mà không một sử gia nào có thể giải thích được một cách thỏa đáng, mặc dầu đã nghiên cứu rất nhiều là tại sao sau hơn 1 ngàn năm bị đô hộ, dân tộc Việt Nam vẫn không bị đồng hóa và Việt Nam vẫn giành lại nền độc lập dân tộc”.

G. Buttinger                                                                                                             (The smaller Dragon, NewYork, Praeger 1958)
Người Việt đã bao nhiêu thế kỷ chịu ảnh hưởng của văn minh Hán Hoa, đã ăn sâu vào cá tính và có thái độ cho rằng mình thua kém, chỉ thu thập văn minh và văn hóa Trung Quốc mà không tin rằng, văn hóa Trung Quốc thật sự đã nhận được sự đóng góp đáng kể từ các dân tộc Bách Việt ở phương Nam. Những nếp sống văn hoá này đem vào Trung Hoa thời Tiền sử mang yếu tố “Biển” rõ rệt và có thể mô tả bằng một chữ, đó là chữ “VIỆT” mà trước kia thường gọi sai lầm là Thái cổ  (ProtoThai)”. Tôi xác định chữ Việt nay là quốc hiệu của một nước vùng Đông Nam châu Á: Nước Việt Nam. Sự thật bị che phủ hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa khiến ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật!”.

J. NEEDHAM

“Ngay từ ngày lập quốc, tất cả then chốt của lịch sử Việt Nam đều ở cái tinh thần đối kháng kết hợp một cách kỳ lạ, một bên là năng lực đồng hoá lạ lùng, bên kia là ý chí quật khởi quốc gia không chịu khuất phục mặc dầu bị thua trận, bị phân tán, bị chinh phục. Hơn một ngàn năm bị sát nhập hoàn toàn vào Trung Quốc, từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên đến thế kỷ thứ mười sau kỷ nguyên, thay vì làm cho dân tộc Việt Nam kiệt quệ thì ngược lại đã làm cho dân tộc Việt trở nên hùng cường. Việt Nam đầy rẫy những triết gia hiểu biết theo nghĩa là những con người có chiều sâu tư tưởng, biết suy nghĩ trăn trở. Càng về đồng quê, thôn cùng xóm vắng thì càng nhiều, đó là xã hội lý tưởng của Platon mơ ước đã hiện thực ở Việt Nam từ lâu rồi”.

PAUL MUS

THÁC THUỶ KHAI CƠ ..
TỨ CỐ SƠN HÀ
QUI BẢN TỊCH,

ĐĂNG CAO VỌNG VIỄN,
QUẦN PHONG LA LIỆT
TỰ NHI TÔN.


Mở lối đắp nền 
Bốn hướng non sông 
về một mối,

Lên cao nhìn rộng
Nghìn trùng sông núi
tựa đàn con.

CÂU ĐỐI TRONG ĐỀN HÙNG



CÓ TỔ CÓ TÔNG
TỔ TỔ TÔNG TÔNG
TÔNG TỔ CŨ

CÒN NON CÒN NƯỚC
NON NON NƯỚC NƯỚC
NƯỚC NON NHÀ

TẢN ĐÀ




CÂY CÓ CỘI, NƯỚC CÓ NGUỒN,
CHIM CÓ TỔ, NGƯỜI CÓ NHÀ
CÓ TỔ CÓ TÔNG, CÓ TÔNG CÓ TỔ …
TỔ TỔ TÔNG TÔNG, TÔNG TÔNG TỔ TỔ
                                                                               MỚI LÀ NGƯỜI

CÂY CÓ GỐC …
MỚI NỞ NGÀNH SINH NGỌN
NƯỚC CÓ NGUỒN …
MỚI BIỂN RỘNG SÔNG SÂU
NGƯỜI TA NGUỒN GỐC Ở ĐÂU ?
CÓ TỔ TIÊN TRƯỚC,
RỒI SAU CÓ MÌNH …


VĂN HIẾN THIÊN NIÊN QUỐC,
XA THƯ VẠN LÝ ĐỒ …
HỒNG BÀNG KHAI TỊCH HẬU,
NAM PHỤC NHẤT ĐƯỜNG NGU.

MINH MẠNG


Ngàn năm văn hiến nước ta 
Giang sơn Tổ quốc một nhà Việt Nam. 
Khởi từ Tiên Tổ Hồng Bàng,
Thái Bình thịnh trị vẻ vang giống dòng!


PHẠM TRẦN  ANH cẩn dịch.

Friday, November 25, 2016

Dân Oan Cả Nước Phản Đối Phiên Tòa Bất Công Xử Dân Oan Dương Nội

NÓNG: DÂN OAN CẢ NƯỚC PHẢN ĐỐI PHIÊN TÒA BẤT CÔNG

11h05: Tin từ trong tòa cho biết:

Tòa đã tuyên: Y án với Bà Cấn Thị Thêu 15 tháng tù giam, Ông Trịnh Bá Khiêm giảm 3 tháng còn 15 tháng tù giam và Ông Lê Văn Thanh giảm 5 tháng còn 07 tháng tù giam, theo điều 257 BLHS về tội Chống người thi hành công vụ. 
Chưa có tin về Ông Trần Văn Sang. (trước đó, tòa sơ thẩm tuyên án ông Sang 20 tháng tù giam về tội Gây rối trật tự công cộng).

Sáng nay, 25-11-2014 chính quyền Hà Nội sẽ đưa nông dân Dương Nội ra xử phúc thẩm là chị Cấn Thị Thêu, anh Trịnh Bá Khiêm chồng chị cùng với các anh Lê Văn Thanh và Trần Văn Sang. Địa điểm: Tòa án Quận Hà Đông.

Cuộc đấu tranh chống cướp đất của 256 hộ nông dân Dương Nội diễn ra đã 7 năm nay. Trong cuộc đấu tranh ấy, đã có 7 người bị bắt và kết án tù giam.

Tất cả 7 người nói trên đều bị truy tố bởi tội danh chống người thi hành công vụ hoặc gây rối trật tự công cộng. Những người này bị bắt vì đã ngăn cản chính quyền cưỡng chế thu hồi đất nhưng bồi thường không thỏa đáng vào tháng 4/2014.

Trong phiên toà sơ thẩm ngày 19/9/2014 toà án nhân dân TpHN đã tuyên: Cấn Thị Thêu 15 tháng tù giam, Trịnh Bá Khiêm 18 tháng tù giam và Lê Văn Thanh 12 tháng tù giam, theo điều 257 BLHS về tội Chống người thi hành công vụ. Tiếp đó ngày 23/9/2014 toà sơ thẩm cũng tuyên ông Trần Văn Sang 20 tháng tù giam về tội Gây rối trật tự công cộng.

09h00: Uất ức, đau khổ dồn nén, dân oan cả nước đang có mặt tại Hà Nội bắt đầu xuống đường diễu hành biểu tình lớn, kéo vào trung tâm TP Hà Nội với sự tham gia của gần 1000 người.

09h40: Xe cảnh sát ép sát đoàn người, càn trở không để tuần hành ra trung tâm TP.
Vừa đi, mọi người vừa hát Dậy mà đi!'








Nhân viên An ninh mải miết quay phim để về nộp cho lãnh đạo Công an TP

Bà con vừa đi vừa hát Dậy Mà Đi! Dậy Mà Đi!





Bà con biểu tình trước tòa:

Hình ảnh lúc 09h00: Bắt đầu biểu tình lớn và diễu hành trên phố Hà Nội, vạch trời kêu oan khuất ngút trời! Phản đối Chính quyền các cấp, các địa phương tàn ác cướp nhà cướp đất, đánh đập dân lành.



Hình ảnh lúc 8h40:
Các Blogger và nhà hoạt động đã có mặt từ sớm sát cánh cùng dân oan Dương Nội











Hình ảnh lúc 08h30:
























Từ sáng sớm, bà con dân oan khắp các tỉnh đang ăn dầm ở dề tại Hà Nội để kêu kiện và đòi trả ruộng đất, tài sản đã bị chính quyền đia phương cướp đoạt đã kéo về khu vực ngã tư Bưu điện Hà Đông để ủng hộ tinh thần của Dương Nội.
.




















Ngay từ 6h00, công an thành phố HN đã bố trí chặn con đường vào tòa án và triển khai các lực lượng để bắt bớ, đàn áp người dân vô tội kéo đến xem tòa, trong số họ có người thân là con, cháu, bố mẹ, anh chị em của người ra công đường hôm nay.

















Nguồn:Tễu blog